Jun 21, 2021

NGƯỜI TRĂM NĂM CŨ - Đỗ Quý Toàn


Người Trăm Năm Cũ
Ngô Nhân Dụng 

“Người Trăm Năm Cũ” là tên một cuốn tiểu thuyết của Hoàng Khời Phong, kể chuyện lịch sử thời Đề Thám chống Pháp. Tôi nhớ cái tựa đề này khi đến thăm nhà văn Linh Bảo, gặp cả nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã tới trước. Hai người đều gần 100 tuổi. Bà Linh Bảo thì còn trẻ, mới 95. Ông Doãn Quốc Sỹ mấy lần nói mình đã 100 tuổi. Doãn Cẩm Liên cải chính: Bố mới 98. Cụ cứ nói mình đã 100, nói mấy lần, cô con gái đành chịu thua! 

Linh Bảo trí nhớ còn tốt nguyên. Năm 18 tuổi bà đã bỏ nhà đi sang Tàu làm “cách mạng.” Tôi đọc cuốn Gió Bấc của bà khi tôi 15 tuổi, bây giờ vẫn còn nhớ mấy chuyện vui về đời sống sinh viên Việt Nam ở Quảng Châu, hôm qua kể lại cho tác giả nghe.

Doãn Quốc Sỹ bắt đầu quên từ hơn 10 năm nay. Trí nhớ cụ xóa bớt dần dần những chuyện vụn vặt. Mươi năm trước, gặp nhau cụ còn hỏi: “Mầu Tím Hoa Sim của Hữu Loan hay Hoàng Cầm nhỉ?” Hoặc, “Quê Toàn ở Bắc Ninh phải không? Bà mẹ cụ Nguyễn Du cũng quê Bắc Ninh.” Trong mười mấy năm, trí nhớ cứ thế nhẹ dần, nhẹ dần; giờ không nghe Doãn Quốc Sỹ hỏi đến Mầu Tím Hoa Sim, đến Bắc Ninh nữa. Nhưng vẫn nhớ mình đã ký bút hiệu Tô Giang Khách, vì nhà ở gần sông Tô Lịch. Sau này về thăm, con sông Tô đã biến mất. Lại đọc thơ Trần Tế Xương: “Sông kia nay đã nên đồng – Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô, khoai ...”

Nhưng có một chuyện Doãn Quốc Sỹ chưa bao giờ quên. Đó là hai câu thơ của Tú Mỡ khai đủ tên tám người con. Doãn Quốc Sỹ lấy người con thứ ba của nhà thơ trào phúng trong Tự Lực Văn Đoàn. Trước ngày cưới, ông bố vợ hỏi nhỏ chàng rể: Anh có biết lễ không? Câu thơ Tú Mỡ viết: “Năm trai, ba gái, tám con – Trung, Hiền, Thảo, Dũng, Hùng, Chuyên, Vỹ, Cường.” Doãn Quốc Sỹ ngậm ngùi: “Bây giờ chỉ chú Cường còn sống, ở Hà Nội.” Mấy năm sau, ngậm ngùi hơn: “Chú Cường cũng mất rồi.” 

Ngày hôm qua thấy Doãn Quốc Sỹ còn nhớ nhiều lắm. Tôi hỏi trong hồi ký Cát Bụi Chân Ai Tô Hoài nói anh đã dùng tên hiệu Quan Sơn, đúng không? Ông nhớ liền: Quan Sơn. Dương Quan Sơn, vì có ba chữ DQS giống như tên thật. Thời 1970 Tô Hoài phụ trách một mục “địch vận” mang tên “Thư Hà Nội” trên đài phát thanh. Tô Hoài kể “Doãn Quốc Sỹ người Cầu Giấy, gần làng tôi. Chúng tôi quen nhau khi mới cầm bút.” Thư Hà Nội viết gửi cho Quan Sơn, tên Doãn Quốc Sỹ ký trên báo Tiểu Thuyết Thứ Năm khi đăng truyện ngắn đầu tiên. 

Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai năm 1990, đặt câu hỏi với Doãn Quốc Sỹ: “Chẳng biết cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với gia đình … này không, (tôi) tin là không, thế mà sao Doãn Quốc Sỹ viết chửi cộng sản hăng thế?” Đọc tới đó thấy buồn cho Tô Hoài. Sống kiểu cộng sản lâu năm quá nên nhiễm cái thói suy nghĩ hẹp hòi.

Bao nhiêu người chống chế độ cộng sản, nêu ra những sai lầm của chủ nghĩa cộng sản, đâu phải vì thù oán cá nhân! Doãn Quốc Sỹ không “chửi.” Chưa bao giờ nghe ông chửi ai một tiếng nào. Ông đúng là một nhà giáo. Thấy cái gì tốt thì khen, cái gì xấu thì nói cho mọi người biết để tránh. Không chửi bới. Những người trăm năm cũ như ông được ông bà cha mẹ tập cho thói quen đó, sống như thế suốt đời.

Đọc Tô Hoài kể chuyện Tú Mỡ thì thấy hai người, nhà thơ bố vợ và nhà văn chàng rể, rất giống nhau. 

Tô Hoài kể những đợt “chỉnh huấn” từ 1951 “theo phương pháp Hoa Nam” của Trung Cộng; rồi kể tới đợt các văn nghệ sĩ tham gia “cải cách ruộng đất” hồi 1954. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm tham gia đợt “đấu tranh giảm tô” ở Thái Nguyên. Cả tuần lễ Nguyễn Tư Nghiêm không “bắt rễ” được một bần cố nông nào, lo lắng sẽ bị phạt “ngồi chuồng trâu  kiểm thảo.” Hoảng quá, phát dại, ông không nhớ đường về xóm mình tạm trú, “Suốt ngày ở ngoài đồng bắt cào cào châu chấu ăn.”

Tô Hoài làm tổ trưởng một nhóm có những Phan Khôi, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Văn Cao, Trần Đức Thảo, Bác sĩ Đặng Vũ Hỉ. Phải đấu tranh, kiểm thảo gắt gao trong nhóm. Tô Hoài kể, “Người khó đánh đổ không phải bác Phan Khôi ương bướng mà … lại là bác Tú Mỡ hiền lành, củ mỉ, ít nói.”

Được “học tập” kết án Nguyễn Tường Tam về những tội hại dân hại nước, kẻ thù dân tộc, lập đảng Đại Việt, phản bội, vân vân, Tú Mỡ nói, “Nhưng tôi không quên được Nguyễn Tường Tam đã có ơn với tôi. Nói thẳng, không có Nguyễn Tường Tam thì không có Tú Mỡ!” Cứ giằng co thế mãi, sau cùng, Tú Mỡ đấu dịu, “Các anh phân tích thế thì tôi đã nghe ra … Nhưng, nếu mai sau có bắt được ‘cái thằng chết chém’ ấy mà tình cờ có Tú Mỡ ở đấy thì… xin chính phủ đừng cử Tú Mỡ ra chém Nguyễn Tường Tam!” Tô Hoài viết: “Nghiêm nghị, Tú Mỡ nói, không nhìn ai: ‘Tôi đề nghị các anh thế.’”

Giữa thế kỷ trước, Bà Linh Bảo cùng các thanh niên Việt Nam qua bên Tàu vì muốn “làm cách mạng” chống thực dân Pháp. Họ được chính phủ Tưởng Giới Thạch cấp học bổng chín năm, học Đại học Quảng Châu. Khi Cộng sản chiếm nước Tàu, Linh Bảo chạy qua Hương Cảng. Ở đó bà gặp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, đưa ông coi tập nhật ký của mình. Nhất Linh xuất bản và giới thiệu. May mắn, bà không sống trong chế độ cộng sản. Dính đến chính quyền Tưởng Giới Thạch thì khó sống, ở Quảng Châu cũng như ở Việt Nam. Bà không bị đấu tố vì dính dáng đến Nhất Linh, như Tú Mỡ

Sống giữa một thế giới tàn ác, gian trá, quỷ quyệt, Tú Mỡ vẫn giữ thói suy nghĩ, nói năng, cư xử với tấm lòng chung thủy, thật thà, đôn hậu. Như ông bà, cha mẹ đã dậy từ thuở ấu thơ. Sau khi đình chiến, 1954, Tú Mỡ trở về Hà Nội và được đề nghị “kết nạp” vào đảng. Một vinh dự. Hứa hẹn những quyền lợi ưu đãi. Nhưng “ở trên” không cho. Tô Hoài có nhiệm vụ báo tin buồn này; đề nghị Tú Mỡ “lên gặp trên” nữa. Nhưng “Tú Mỡ bắt tay tôi, về hể hả.” Ông ở hiền gặp lành, trước khi chạy khỏi Hà Nội đi kháng chiến, ông gửi căn nhà ở Cầu Giấy cho người khác ở. Lúc trở về, người ta trả lại, theo Tô Hoài thì “nhà cửa, vườn tược gần y nguyên.” Tại sao ông nhấn mạnh “gần y nguyên?” Nghĩa là không mất một thứ gì trong nhà?

Tôi lại nhớ câu chuyện một người trăm năm cũ khác. Thân phụ một người bạn tôi, làm công chức thời Pháp thuộc. Năm 1945 Nhật đảo chánh, người Pháp bỏ Hà Nội đi tị nạn. Ông thân sinh bạn tôi được một người Pháp trong sở ới nhà nhờ giữ một cái hộp nhỏ. Cụ nhận lời. Mấy năm sau, người “sếp cũ” trở về, đến thăm. Cụ đưa trả cái hộp, còn niêm kín. Lúc đó người chủ hộp mới cho biết trong hộp đầy tiền mặt, vàng bạc, nữ trang. Cụ không bao giờ nghĩ đến chuyện mở hộp ra coi có những gì. Và cũng không nhận một món quà đền ơn nào.

Những người trăm năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Doãn Quốc Sỹ nhiều lần nhắc lại tác giả hai câu thơ trên, Vũ Đình Liên, là một thầy giáo dậy mình thủa nhỏ. 

Thực ra không cần đi đâu tìm linh hồn những người trăm năm cũ. Họ vẫn còn sống. Chúng ta vẫn thấy họ, ở quanh mình. Lắm lúc tôi nhìn trong gương, tự hỏi trên mặt mình có những nét nào giống bố lúc về già không. Năm tôi 30 tuổi mẹ tôi vẫn xoa đầu tôi nói, “Đầu hói rồi, lại giống Thầy ngày xưa.” 

Người Việt mình không dành mỗi năm một ngày mừng “Ngày Của Cha” như phong tục người Mỹ. Tôi không đếm coi mỗi tháng, mỗi năm tôi nhớ đến bố mình bao nhiêu lần, nhưng chắc là nhiều. Tôi nhớ bố nhất mỗi khi đắn đo trong việc cư xử trong cuộc đời. “Mình làm như vầy thì bố mình có vui hay không? Hay là sẽ buồn?” Tôi mồ côi khi chưa đầy 5 tuổi nên biết rất ít về cụ. Chỉ nghe mẹ tôi kể chuyện. Mẹ không bao giờ gọi người chồng đã mất là “ông ấy,” “ông cụ,” hay “thầy các con;” mà lúc nào cũng gọi là Thầy, như chúng tôi vẫn gọi bố mình. “Nói chuyện với ai Thầy cũng “vâng,” và “dạ. Với các con lớn bao giờ Thầy cũng gọi là anh, là chị. Thầy không bao giờ mày, tao, thằng này, con kia.” 

Khi gặp những người gần 100 tuổi mà tôi quen gọi là anh, là chị, như anh Doãn Quốc Sỹ, chị Linh Bảo, ngẫm cuộc đời họ đã sống, nhìn cách họ nói năng, cư xử, tôi vẫn yên tâm. Những người trăm năm cũ sẽ còn với chúng ta mãi mãi. 


No comments: