May 14, 2008

CÁC TRUNG TÂM VIỆT NGỮ: CHỈ TỒN TẠI HAY SẼ PHÁT TRIỂN?

Bài học về tổ tiên trong một lớp 2
tại trung tâm Việt Ngữ Cộng Đòan Westminster


Nói đến các trung tâm Việt Ngữ là lại nói đến một trong những “cái nhất” của cộng đồng người Việt tại Cali khi so sánh với các cộng đồng sắc tộc khác. Chỉ riêng ở vùng Nam Cali, có tơí hơn 80 trung tâm Việt Ngữ, đang tiếp nhận khỏang 17,000 học sinh theo học! Những trung tâm này đã được hình thành từ rất sớm do thế hệ người Việt tị nạn thứ I, với mục đích giữ gìn được sự tồn tại của tiếng Việt trên đất Mỹ.

Rồi năm tháng qua đi… Thế hệ người Việt thứ III, sinh ra và lớn lên ở đây, hiện đang là học sinh của các trung tâm này. Chưa có một cuộc thăm dò chính thức nào để đo lường mức độ ham học tiếng Việt của các em. Nhưng có khá nhiều bậc phụ huynh người Việt nói rằng ngày nay thuyết phục con em mình đi học tiếng Việt rất khó! Trong khi đó, việc các trung tâm vẫn duy trì được họat động đến ngày hôm nay là do sự đóng góp công sức thầm lặng của biết bao nhiêu con người trong cộng đồng chúng ta.

Các trung tâm hiện nay đang họat động ra sao? Hướng phát triển cho tương lai thế nào? Tôi đã trao đổi những vấn đề này với hiệu trưởng của một trung tâm Việt Ngữ, và chủ tịch Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California…

Tôi tìm gặp anh Tôn Thất Thiệu, hiệu trưởng trung tâm Việt Ngữ Hồng Bàng, tại trụ sở họat động của trung tâm- Bolsa Grande High School. Các lớp học bắt đầu từ 1:30 đến 3:30 Chủ Nhật hằng tuần. Trung tâm hiện có khỏang 780 học sinh, con số cao nhất trong các trung tâm Việt Ngữ. Trung tâm có 7 cấp lớp, từ mẫu giáo đến lớp 6. Có 45 thầy cô đang phụ trách giảng dạy.
Cũng như anh hiệu trưởng Thiệu, tất cả các thầy cô đều là nghiệp dư, làm việc tình nguyện tại trung tâm. Giống như phong trào hướng đạo, rất nhiều phụ huynh trở thành giáo viên để hỗ trơ trung tâm. Tiền niên liễm các em đóng chỉ đủ để trả tiền thuê mặt bằng, tiền sách và để duy trì một số họat động phụ trợ khác của trung tâm.

Do đâu mà chúng ta phải bỏ công sức ra dạy tiếng Việt? Theo anh Thiệu, tôn chỉ của trung tâm là bảo tồn và phát triển văn hóa Việt Nam trên đất Mỹ. “Tiếng Việt còn là văn hóa Việt Nam còn”. Mục tiêu cụ thể là làm sao để các em có thể đọc, nói, viết tiếng Việt lưu lóat.

Khi được hỏi về việc học sinh của trung tâm có thích học tiếng Việt không, anh Thiệu cho biết chưa có thăm dò chính thức nào. Tuy nhiên, có một số phụ huynh phản ảnh rằng con em mình không thích đi học tiếng Việt vì những lý do như:
- Không có thì giờ học và làm bài. Vấn đề này là của các em đang học intermediate school, bài vở trong trường chính tương đối nhiều
- Các em học mà không thấy tiến bộ, thấy tốn thời gian mà khả năng đọc, viết tiếng Việt vẫn không tốt lắm
- Không có bạn đồng hành. Các em phân bì rằng tại sao các bạn khác trong trường cuối tuần được nghỉ ngơi, vui chơi, mà mình lại phải đi học tiếng Việt?

Để giải quyết những vấn đề này, khuyến khích các em tiếp tục học tiếng Việt, trung tâm Hồng Bàng đã có những biện pháp như:
- Đối với các em ở cấp lớp lớn: giảm lượng bài tập về nhà cho các em
- Để giúp cho các em học tiến bộ mau hơn, mỗi lớp ngoài giáo viên chính còn được tăng cường thêm một trợ giảng. Giáo viên của trung tâm còn được gởi đi dự các khóa tập huấn để nâng cao trình độ sư phạm.
- Riêng vấn đề “không có bạn đồng hành”, học sinh của trung tâm Hồng Bàng hiện nay đã ít gặp hơn, do số lượng học sinh đông, các em không còn cảm thấy “lẻ loi” khi đi học tiếng Việt nữa.

Bên cạnh chương trình học, trung tâm Hồng Bàng còn có những họat động ngọai khóa để các em vừa có thêm niềm vui, vưà có dịp áp dụng tiếng Việt mình đã học. Thí dụ như chương trình văn nghệ Đêm Hồng Bàng được tổ chức hằng năm vào khỏang tháng 4, với các tiết mục múa, hát, họat cảnh do các em & thầy cô thực hiện. Ngòai ra còn có các kỳ triển lãm về văn hóa, lịch sử Việt Nam, các cuộc thi viết văn, viết chính tả giữa các trung tâm Việt ngữ…

Theo anh Thiệu, cho dù ban điều hành, thầy cô đã dành nhiều thời gian, tâm trí, đã nỗ lực không ngừng, nhưng phong trào học Việt ngữ vẫn đang có chiều hướng đi xuống. Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải đi tìm những nguồn động lực mới để khuyến khích thế hệ sau tiếp tục đi học tiếng Việt…

Các em học sinh lớp 6
trung tâm Hồng Bàng làm bích báo

Sau cuộc trao đổi với anh Thiệu, để có cái nhìn tổng quát hơn về việc dạy và học tiếng Việt ở Cali, tôi đã tìm gặp thầy Vũ Hòang, Chủ Tịch của Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California. Theo thầy Hòang, có thể xem Ban Đại Diện (BDD) như là nhịp cầu nối liên kết các trung tâm Việt Ngữ với nhau. Những họat động chính của BDD là:
- Biên sọan bộ sách giáo khoa dạy tiếng Việt ở hải ngọai. Có thể nói đây là bộ sách giáo khoa được sử dụng nhiều nhất tại các trung tâm Việt ngữ không chỉ riêng ở Mỹ. Hiện nay có khỏang 400 trung tâm trên tòan thế giới sử dụng bộ sách giáo khoa này
- Tổ chức các khóa huấn luyện và đào tạo hằng năm về chuyên môn sư phạm cho các thầy cô của các trung tâm Việt ngữ.

Vừa là chủ tịch BDD, vừa là hiệu trưởng của trung tâm Việt Ngữ Cộng Đòan Westminster, thầy Hòang cũng chia xẻ những mối quan tâm của anh Tôn Thất Thiệu. Thầy Hòang ước lượng chỉ có khỏang 1/3 các em đến trung tâm mình là thực sự thích đi học tiếng Việt, còn lại các em đến trường là do cha mẹ yêu cầu. Một số nguyên nhân:
- Phải đi học vào cuối tuần
- Không thấy ích lợi của việc đi học tiếng Việt

Thầy Hòang cho rằng các trung tâm cần nhiều hơn nữa sự hỗ trợ của phụ huynh ở nhà. Thí dụ như phụ huynh cũng nên tìm cách khuyến khích con mình học tiếng Việt, phải nói tiếng Việt với con, phụ con làm bài tập ở nhà… Nếu những việc này chỉ làm tại trung tâm là không đủ.

Thầy Hòang cũng cho rằng các trung tâm Việt ngữ cần phải có nguồn tài trợ lớn hơn để họat động có hiệu quả hơn. Số tiền niên liễm ít oi thu được của các trung tâm chỉ đủ trả những chi phí cơ bản nhất. Tất cả giáo viên đều dạy tự nguyện không lương. Rất khó có điều kiện để nâng cấp được chất lượng giảng dạy, để hấp dẫn các em theo học hơn…

Tôi kết thúc hai cuộc phỏng vấn về các trung tâm Việt ngữ, mà có cảm giác như mọi thứ chỉ là mới bắt đầu… Có quá nhiều vấn đề đang được đặt ra cho tương lai của các trung tâm Việt ngữ của cộng đồng chúng ta. Tại sao một số các em không thích học tiếng Việt? Động cơ nào khiến một số em khác học hăng say? Có cách nào để các Trung Tâm Việt Ngữ của chúng ta sẽ “phát triển” chứ không chỉ là “tồn tại” trong tương lai? Có cách nào đó để giúp cho công sức tự nguyện của hơn 80 hiệu trưởng và một ngàn giáo viên không uổng phí? Những câu hỏi này rất cần sự đóng góp ý kiến của cộng đồng từ nhiều góc nhìn khác nhau. Việt Báo rất mong nhận được ý kiến của quí độc giả về vấn đề này. Xin gởi thư cho chúng tôi qua địa chỉ của Việt Báo, hoặc e-mail: hungdoan@vietbao.com

Tháng 4 – 2008

Đòan Hưng

1 comment:

Hot... said...

Làm sao duy trì được trung tâm dạy tiếng Việt cho các em Việt Nam thuộc thế hệ II và III tại hải ngoại là nổi ưu tư của tôi hiện nay. Hơn cả năm nay tôi rán tìm một câu trả lời mà không tìm ra được. Tôi cứ như một người đi trong đường hầm đen tối và sẽ không bao giờ thấy một ánh sáng le lói nào cả. Nghe thật bi quan, nhưng sự thật là vậy, tuy nhiên tôi luôn đưa ra câu hỏi cho chính cá nhân tôi là mình có bỏ cuộc không? vẫn cố duy trì những gì đang còn để rồi hy vọng mai nay được tươi sáng hơn và hiện giờ tôi đơn thân độc mã giữ một trung tâm dạy tiếng Việt ở miền đông London, mở cửa mỗi tuần vào chiều thứ Bảy từ 2 giờ đến 5 giờ. Ba thầy cô giáo dạy học, được ăn lương chính quyền địa phương và chỉ có 15 em tới học mà thôi.
So với cộng đồng Việt Nam tại Cali và Uc châu thì cộng đồng Việt Nam tại London rất èo uột. Vào cái thời kỳ thịnh nhất của thế hệ 1 Việt Nam tại London thì lên đến 10 trung tâm dạy tiếng Việt và mỗi trung tâm có khoảng 100 em đến học. Vì thành phố London này thuộc loại đa văn hóa và đa sắc tộc nên chính quyền của từng quận luôn có quỹ giúp cho dân tộc thiểu số về văn hóa, tổ chức lễ phong tục cổ truyền. Nhưng thời gian trôi qua, những người có nhiệt tình với cộng đồng đã thấm mệt, tuổi tác chồng chất họ bước dần vào bóng tối. Vì nguyên nhân thiếu nhân lực, các trung tâm Việt ngữ tại London đóng cửa dần và các trung tâm còn lại ngày càng ít học sinh Việt Nam đến học.
Các phương pháp hoạt động và tổ chức trường tiếng Việt tại nam Cali của anh Thiệu và thầy Hoàng rất hợp ý tôi. Những việc các giáo viên bên đó làm là đúng phương hướng duy trì một trung tâm Việt ngữ. Có một điều tôi choáng váng mặt mày là nghe một con số quá đông học sinh Việt Nam đi đến 80 trung tâm Việt ngữ. Đây là một lợi thế có thể để phát triển chứ khoang nghĩ việc tồn tại. Có thể những ý kiến sau của tôi không thực tế vì tôi dựa vào sinh hoạt tại London mà đem áp dụng tại Hoa Kỳ thì khác phong thổ rồi, nhưng tôi cũng cứ nói ra thử biết đâu có sự trùng hợp.

Nay con em chúng ta sanh và lớn lên tại xứ người, xem như một phần linh hồn của các em đã thuộc mảnh đất này. Vậy chúng ta phải có ý nghĩ là đem sinh hoạt của chúng ta vào giòng nước chính (mainstream), để diễn đạt rõ ý tôi hơn là tiếng Việt đã được đã được xem ngôn ngữ thứ hai và có giờ chính thức dạy trong trường trung học tại nam cali chưa? khi các em vào đại học thì tiếng Việt được tính điểm như một unit chưa và bộ giáo dục Hoa Kỳ có chịu xuất bản một curriculum cho ngôn ngữ Việt nam không? Tôi nói vậy là nơi tôi cư ngụ và làm việc rất đông dân Bangadesh, có những trường tiểu học tôi thấy đến 90% là các em thiếu nhi Bangadesh. Khi các em đến trường chính qui thì các em vẫn học bình thường, nhưng đến giờ tan học là có những ngày các em ở lại thêm 1 tiếng học tiếng mẹ đẻ và cuối tuần các em đến trung tâm riêng của mình học tiếp tiếng của mình. Vì lối sinh hoạt điều đặn như vậy thì các em cảm tiếng mẹ đẻ là một môn học và sau này sẽ được tính một bằng cấp vào đại học.

Hoa kỳ là một liên hiệp chủng quốc, tôi nghĩ tại vùng nam Cali cũng có những sắc tộc khác, tôi nghĩ nếu mình tạo ra một hệ thống second language network thì như vậy sẽ có nhiều lợi ích. Như bên London, hàng năm vào tháng 2, là có một ngày International Language Day, các trung tâm dạy tiếng mẹ đẻ như Tàu, Pakistan, một số quốc gia bên Phi châu, Bangadesh, Ân độ, Việt Nam.... là tới biểu diễn một chương trình văn nghệ bằng tiếng xứ mình, thì như vậy các em học sinh cảm thấy niềm tự hào về ngôn ngữ mẹ đẻ.

Tôi có một suy nghĩ và các trung tâm của người đông âu dạy tiếng Nga, Ba Lan, Tiệp... cho các em thiếu nhi họ đã áp dụng phương pháp này là một trung tâm của họ không thuần về mặt dạy tiếng mẹ đẻ mà còn có những hoạt động khác như dạy nhạc, dạy vũ, dạy toán, dạy computer... thì như vậy trung tâm mở cửa từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Phương pháp này tốn kém vì phải cần nhân lực và tài lực, nhưng tôi nghĩ vẫn có thể làm được nếu chúng ta thành lập ra được một hệ thống giáo dục của người Việt. Tại nam Cali đã có Hướng Đạo, gia đình Phật tử, Cộng đồng thiên chúa giáo trong đó có ca đoàn và các trung tâm Việt ngữ thì mình cần phải ủng hộ nhau để phát triển và sinh tồn. Chúng ta đã đến giai đoạn không thể hoạt động cá thể nữa, nhưng chúng ta vẫn hoạt động theo tính cách độc lập của từng hội đoàn, trung tâm nhưng phía sau chúng ta là một Network có tính cách ủng hộ cho nhau khi gặp khó khăn.

Các em Việt Nam mình miệng luôn nói là bị ép buộc đi học, có một lần tôi cho các em ngồi xuống tự viết ra những cảm nghĩ tại sao phải cần đi học tiếng Việt thì phải nói đến 100% không em nói bị ép đi học cả mà đều nói việc học tiếng mẹ đẻ là cần thiết. Tôi bắt đầu dạy tiếng Việt vào năm 1987, những em học trò thời đó của tôi nay đã trên 30 , một số em có gia đình và con cũng đã đủ tuổi đi học tiếng Việt. Hồi đó các em cũng không chịu học tiếng Việt, tới cũng cho có lệ, nay các em gặp lại tôi thì xin lỗi đã làm một đứa học trò làm biếng. Tôi có hỏi các em một câu là nếu tiếng Việt được sử dụng rộng rãi như tiếng Anh thì các em có chịu khó học không? các em cười nói thì phải học thôi. Như vậy người nào mạnh làm vua phải không? Thật ra mà nói siêng học không phải là chuyện dể dàng, khi các em dùng từ ép buộc chẳng qua là thay thế sự làm biếng mà thôi.

Hiện giờ trong cộng đồng chúng ta thiếu những người làm trong nghành nghề như sau: Nhân viên công đồng (community worker), Nhân viên xã hội (Social worker), Nhân viên thanh thiếu niên (Youth worker) và giáo viên (Teacher) vì những người này là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển một trung tâm tiếng Việt, vì họ sẽ bỏ những thời gian làm việc về gây quỹ (fund raising), lập những chương sinh hoạt, thăm viếng hỏi thăm (outreach work) tại sao các em không đi học? tìm hiểu khi các em đang đến tuổi trưởng thành. Họ là chìa khóa chính giúp đỡ ban lãnh đạo của trung tâm về mặt phát triển.

Tôi chỉ nói đến đây, vì nói tiếp sợ nhiều thứ không thích hợp vì hai quốc gia khác nhau, tuy là Mỹ và Anh quốc như là xác và linh hồn, có điều vẫn có những sự dị biệt. Tôi hy vọng sẽ có nhiều thành công cho các trung tâm Việt ngữ tại nam Cali.

Quan