Oct 14, 2025

TẠM BIỆT BỐ SỸ 14 THÁNG 10 NĂM 2025 (23 THÁNG 8 NĂM ẤT TỴ)

 




https://youtu.be/tBzlzqMQIlA?si=YK8lsre-UvHj1KDf

PHÂN ƯU

https://www.vietbao.com/p301430/phan-uu


ĐỪNG GIỮ - CỨ SỐNG - Nguyễn Tư Loan



Cháu may mắn có nhân duyên được bác cưu mang cho gia đình cháu về sống chung trong lúc gia đình bị hoạn nạn.  Cháu được một nhân duyên vô cùng quý báu là mỗi tối cháu thấy bác thiền, cháu rất thích thú, rất muốn bắt chước bác nhưng chưa học được thì bác đã bị bắt đi học tập cải tạo. Nhưng quả thực bác đã tặng cho cháu một hạt mầm thiền của Đạo Phật mà sau này cháu được tu học theo thầy Viên Minh nuôi dưỡng phát triển trở thành con người bây giờ. 

Cháu còn được chăm sóc cho bác sức khỏe răng và cùng với chị Liên chăm sóc sức khỏe cho bác và  bác đã sống  vui, và nhất quyết sống khỏe cho đến lúc bác ra đi ở tuổi 103. Bạn bè trang lứa của bác càng ngày càng thưa dần và cũng không còn sức khỏe để xuất hiện trong những buổi giao lưu ở công chúng nữa. Trong khi cháu hân hạnh được tham dự khá nhiều sinh hoạt của bác. Tết năm nay mưa nhiều bác không ra ngoài đi bộ được nên cũng quẫn chân. Khi cháu đến, ngày hôm ấy chỉ có mây, không mưa, hai bác cháu ( dùng ngôn từ nhà Phật) đi kinh hành, trong khi dùng cách diễn tả của bác là đi “ lăng quăng”. Hai bác cháu dừng  chân lại ngắm nhà làm landscape rất thiền. Cuối tháng 5  năm nay là lần cuối cùng cháu chụp được hình bác và thầy Viên Minh là hai vị thiện tri thức đã giúp cháu trưởng thành. Bác là người tặng  cho cháu hạt mầm thiền và thầy Viên Minh hướng dẫn cháu trưởng thành trong thiền. 

Từ nay cháu không còn được ôm bác nữa rồi. Xin bác thong dong tự tại đi về Niết Bàn. Nhớ bác rất nhiều.

Cháu Nguyễn Tư Loan 



LA MORT N'EXISTE PAS! - Henri Cassim

S’il nous faut naître pour mourir, il nous faut aussi peut-être mourir pour renaître. Il n’est pas facile de naître, comme il n’est pas facile de mourir car nous avons peur de quitter la vie que nous connaissons, pour une autre vie inconnue. 

Et de même qu’il existe des naissances avant terme, il y a des morts qui semblent bien prématurées. Mais la vie nous pousse toujours en avant. Elle nous projette chacun à son rythme. Et le fleuve devient la mer. La chrysalide abandonne son cocon pour devenir papillon de liberté. 

“À moins qu’il ne meure, le grain ne porte pas de fruit”. Il nous faut quitter un jour notre manteau d’hiver pour vivre un printemps nouveau - “La vie ne nous est pas otée, elle est transformée.” 

Finalement, la mort n'existe pas. Bien sûr, il y a la mort corporelle qui fait souffrir et pleurer mais ce n’est pas la mort spirituelle. 

La mort est une porte, un passage vers le pays de l’immense amitié, de la tendresse infinie. La mort nous élève au- dessus des insouciances et des banalités du quotidien, L’Homme ne meurt pas. La mort est un accouchement vers la lumière. 

Henri Meunier 

Bonne Lecture Hương Nhí 

---

If we must be born in order to die, perhaps we must also die in order to be reborn. It is not easy to be born, just as it is not easy to die, for we fear leaving the life we ​​know for another unknown one.

And just as there are premature births, there are deaths that seem far too soon. But life always propels us forward. It propels each of us at our own pace. And the river becomes the sea. The chrysalis abandons its cocoon to become a butterfly of freedom.

“Unless it dies, the grain bears no fruit.” We must one day shed our winter cloak to experience a new spring – “Life is not recorded for us, it is transformed.”

Ultimately, death does not exist. Of course, there is physical death, which brings suffering and tears, but this is not spiritual death.

Death is a door, a passage to the land of immense friendship, of infinite tenderness. Death elevates us above the carelessness and banalities of everyday life. Man does not die. Death is a birth into the light.

Henri Meunier
Enjoy your reading, Hương Nhí

--- 

Nếu chúng ta phải sinh ra để rồi chết đi, thì có lẽ chúng ta cũng phải chết đi để được tái sinh. Sinh ra không dễ dàng, cũng như chết đi không dễ dàng, bởi chúng ta sợ phải rời bỏ cuộc sống quen thuộc để đến với một cuộc sống khác, xa lạ.

Cũng như có những ca sinh non, có những cái chết dường như đến quá sớm. Nhưng cuộc sống luôn thúc đẩy chúng ta tiến về phía trước. Nó thúc đẩy mỗi người chúng ta theo nhịp độ riêng của mình. Và dòng sông trở thành biển cả. Con nhộng từ bỏ kén để trở thành một chú bướm tự do.

“Nếu không chết đi, hạt lúa sẽ không đơm hoa.” Một ngày nào đó, chúng ta phải cởi bỏ chiếc áo choàng mùa đông để sống một mùa xuân mới – “Cuộc sống không bị lấy đi mà, mà nó được chuyển hóa.”

Cuối cùng, cái chết không tồn tại. Dĩ nhiên, có cái chết về thể xác, mang theo đau khổ và nước mắt, nhưng đó không phải là cái chết về tinh thần.

Cái chết là một cánh cửa, một lối đi đến vùng đất của tình bạn bao la, của sự dịu dàng vô hạn. Cái chết nâng chúng ta lên khỏi sự vô tâm và tầm thường của cuộc sống thường nhật. Con người không chết. Cái chết là một sự ra đời vào ánh sáng.

Henri Meunier

Oct 13, 2025

DI SẢN TINH THẦN DOÃN QUỐC SỸ – MỘT ĐIẾU VĂN TRIẾT HỌC Nguyễn Quốc Bảo (Pierre Nguyen)

笑對塵生心不動

行於世事道常明

Tiếu đối trần sinh tâm bất động

Hành ư thế sự đạo thường minh.

Dịch nghĩa:

Cười trước cõi trần, lòng chẳng động,

Bước trong thế sự, đạo còn soi.

Bất Tiếu

(Nhớ Nguyễn Trọng Cảnh)


1. CON NGƯỜI

Ông đã đi rồi. Một buổi sáng bình yên ở Quận Cam, hơi thở cuối cùng rời khỏi thân xác đã gánh hơn một thế kỷ trần gian. Không có tiếng khóc lớn, không có vòng hoa phô trương, chỉ là sự tĩnh lặng – cái tĩnh lặng mà cả đời ông đã đi tìm, và cuối cùng, đã hòa vào nó. Doãn Quốc Sỹ – cái tên ấy, khi đọc lên, như nghe tiếng chuông xa của một thời thanh khiết. Một thế kỷ qua đi, nhưng với ông, thời gian chưa bao giờ là dòng trôi, mà là dòng lắng. Ông sống như một giọt nước rơi vào lòng đất, thấm xuống, tan đi, để lại một vệt trong suốt.

Tôi nhỏ hơn ông hai mươi tuổi, nghĩa là sinh ra trong một thế giới đã khác: một thế giới của ồn ào, nghi ngờ, của những ý thức bị thương tổn sau bao lần đứt gãy. Nhưng Doãn Quốc Sỹ vẫn ở đó – như một cột sáng lặng lẽ. Không lớn tiếng, không tranh biện, không tự xưng, ông chỉ mỉm cười, như thể đã biết hết những điều người ta còn loay hoay hỏi. Ông không “vượt qua” thời đại – ông bước ra khỏi nó. Và bằng chính sự bước ra ấy, ông chứng tỏ một điều tưởng đơn giản mà hiếm ai làm được: rằng con người vẫn có thể sống thiện lành, vẫn có thể giữ một tâm hồn trong sáng, giữa bao nhiêu đục ngầu của thế kỷ.

Ở ông, không có sự “phấn đấu” để thành đạo. Không có khổ hạnh để chứng ngộ. Thiền không phải là một con đường, mà là hơi thở. Ông sống giữa đời mà vẫn vô tâm, vô ngã, như thể những biến động bên ngoài chỉ là những làn gió thoảng. Người ta bảo ông đã từng bị giam cầm, bị đánh đập, bị tước mất cả tự do. Nhưng thử hỏi: có ai có thể tước được tự do của một người đã không còn coi thân xác là ngục tù? Ông bị giam, nhưng chính ông lại hóa giải nhà tù bằng tâm thiền của mình. Trong tù, ông vẫn thở ra và hít vào như ở giữa trời rộng. Người ta tưởng bắt được Doãn Quốc Sỹ – nào ngờ chỉ bắt được một thân xác, còn linh hồn ông thì đã ung dung tự tại từ lâu rồi.

Tôi nhớ một lần đọc lại câu chuyện “mất xe La Dalat” của ông – cái xe duy nhất, phương tiện đi lại, và cũng là tài sản cần thiết của một nhà văn nghèo. Khi biết xe mất, ông chỉ cười khà khà: “Thế đấy!” Cái “thế đấy” của ông không phải là chấp nhận bất lực, mà là minh triết. Nó không phải buông xuôi, mà là buông xả. Ở đời, mấy ai cười nổi khi vừa mất đi thứ quý giá nhất mình có? Nhưng ông cười được. Và trong tiếng cười ấy, có cả ngàn năm thiền định, có bóng dáng của Trần Nhân Tông, có hơi thở của Phật Thích Ca, có sự siêu nhiên của người hiểu được bản chất vô thường của mọi sự vật.

Trong một thế kỷ đầy dâu bể của Việt Nam, Doãn Quốc Sỹ là một trong số ít những người giữ được sự quân bình giữa trí thức và hiền triết. Ông dạy học, nhưng không truyền tri thức – ông truyền tâm thế. Ông viết văn, nhưng không kể chuyện – ông kể sự tĩnh lặng. Những học trò của ông, dù chỉ học ông một niên khóa, đều nói rằng họ học được “cách đứng, cách ngồi, cách nói.” Ở ông, mọi cử chỉ đều có ý nghĩa. Khi ông đặt bút, con chữ không đi tìm cái đẹp, mà đi tìm cái thật. Khi ông giảng bài, câu nói không chỉ để hiểu, mà để an tâm. Con người ấy, sống giữa cõi phàm, nhưng đã hóa cõi thánh trong từng động tác thường nhật. 

Doãn Quốc Sỹ, nếu sinh ở Trung Hoa đời Đường, có lẽ đã là một thiền sư; nếu ở Ấn Độ, có lẽ là một đạo sĩ lang thang; nếu ở Pháp thế kỷ XIX, có lẽ là một Pascal cười thay vì khóc. Nhưng ông sinh ở Việt Nam, ở một thời đầy rối loạn, nên thành một nhà văn. Một nhà văn – người phải dùng chữ, nhưng chữ lại chỉ là phương tiện. Ông viết không để chứng minh, không để giải thích, mà để “gợi”. Cái đẹp trong văn ông không nằm ở cấu trúc hay ngôn từ, mà nằm trong tấm lòng. Đọc “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” hay “Khu Rừng Lau”, ta thấy một thứ ánh sáng dịu, thấm, không rực rỡ mà cũng không tàn. Ánh sáng ấy không soi rọi, mà tỏa lan – như ánh đèn trong sương, như hơi thở của một người ngồi yên giữa giông gió. 

Với thế hệ chúng tôi, Doãn Quốc Sỹ là chứng nhân của một nhân cách. Một người có thể bị đánh, bị bắt, bị lưu đày – nhưng không bao giờ than oán. Một người có thể thua mọi trận ngoài đời – nhưng chưa bao giờ thua chính mình. Trong khi bao nhiêu người tìm cách nói lớn tiếng để được nhớ, ông chọn im lặng để được quên. Và chính vì thế, ông được nhớ lâu hơn tất cả. Cái im lặng của ông không phải là sự tránh né, mà là một bài học. Trong xã hội mà ai cũng muốn nói, thì người biết im là người đã hiểu hết.

Những năm cuối đời, ông vẫn giữ thói quen uống nước muối súc miệng, đi bộ chậm, ăn ít, nói ít, cười nhiều. Cái cười của ông là một thứ hương. Nó không bật ra vì hứng khởi, mà tỏa ra vì lòng nhẹ. Tôi từng tự hỏi: phải chăng đó chính là đỉnh cao của tu tập – khi mỗi cử chỉ thường nhật đều mang dáng dấp của đạo? Ở Doãn Quốc Sỹ, người ta không còn thấy ranh giới giữa “đời” và “đạo”. Cả hai hòa vào nhau, như sóng và nước, như tiếng thở và nhịp tim. Có lẽ, chính vì thế mà ông được gọi là người “đối cảnh vô tâm” – không phải vì ông không có cảm xúc, mà vì cảm xúc đã trở nên trong suốt. Ông vẫn thấy, vẫn thương, vẫn buồn, nhưng trong cái buồn ấy đã có sự hiểu, trong cái thương ấy đã có sự biết.

Nếu có thể tóm lại bằng một câu, tôi nghĩ: Doãn Quốc Sỹ là người đã chứng minh rằng từ bi có thể là một triết học sống. Không cần diễn thuyết, không cần luận thuyết, ông chỉ sống hiền lành, và chính sự hiền lành ấy là một định nghĩa của trí tuệ. Ông không cố gắng trở thành người khác, và cũng không đòi ai phải trở thành ông. Ông chỉ nói: “Thế đấy!” – một lời đơn giản, mà trong đó chứa cả cái nhìn của Phật, cái im của Lão, và cái nhân của Khổng.

2. TƯ TƯỞNG

Nói về Doãn Quốc Sỹ, người ta thường nhắc đến đức độ, đến lòng nhân, đến chữ “hiền.” Nhưng tôi nghĩ, chữ “hiền” ở ông không phải là một phẩm chất đạo đức, mà là một hình thái của trí tuệ. Đó không phải là sự nhu thuận, càng không phải là sự cam chịu; nó là kết tinh của một cái nhìn xuyên suốt — một thứ minh triết an nhiên chỉ có thể đến từ người đã đi qua khổ đau mà không mang theo hận thù. Ông từng nói: “Con người có thể bị ép sống, nhưng không ai ép được cách ta sống.” Chính ở điểm này, tư tưởng Doãn Quốc Sỹ chạm tới cái cốt lõi của tự do.

Tự do, với ông, không phải là khả năng làm điều mình muốn, mà là khả năng không bị lệ thuộc vào điều mình ghét. Người ta thường tưởng rằng tự do là hành động; nhưng trong ông, tự do là buông bỏ hành động. Khi một người có thể thản nhiên nói “Thế đấy” trước mất mát, khi một người có thể cười mà không cần thắng, thì người ấy đã thoát khỏi vòng hệ lụy của thế gian. Tự do ấy không phải là quyền, mà là trí. Không ai ban cho ông, và cũng không ai tước đi được.

Đó là tư tưởng xuyên suốt trong văn ông: tự do như một trạng thái nội tâm, chứ không phải một hoàn cảnh chính trị. Ở một xã hội miền Nam sôi động những năm sáu mươi, Doãn Quốc Sỹ vẫn chọn con đường riêng — không cổ võ chủ nghĩa, không tranh luận quyền lực, mà chỉ viết về những mảnh đời nhỏ bé, về nhân tính bị thử thách, về phẩm giá con người trong sự lặng lẽ. Với ông, nhà văn không phải là người cầm bút để phản ứng, mà là người giữ lại phần nhân hậu khi xã hội đã mất nó.

Vì vậy, tác phẩm của ông – dù là Chiếc chiếu hoa cạp điều, Dòng sông định mệnh, Khu rừng lau, hay Vào thiền – đều có một đặc điểm chung: không có kẻ thù. Ở đó, con người không được phân chia bởi lập trường hay ý thức hệ; họ chỉ khác nhau ở mức độ tỉnh thức. Trong khi người khác viết để chứng minh “bên kia sai,” thì Doãn Quốc Sỹ viết để nhắc “bên nào cũng khổ.” Ông không đứng về phía ai, vì ông đứng về phía người. Và chính ở điểm đó, ông vượt ra khỏi biên giới của mọi thời cuộc. 

Người ta hay quên rằng Doãn Quốc Sỹ là một nhà giáo trước khi là nhà văn. Nhưng có lẽ vì thế mà tư tưởng của ông không mang tính phán xét mà mang tính khai mở. Ông dạy sinh viên không phải để họ “trở thành ai đó,” mà để họ tự nhận ra mình là ai. Nhiều thế hệ học trò kể rằng, trong mỗi buổi giảng của ông ở Đại học Văn khoa hay Vạn Hạnh, ông thường nói về đạo sống nhiều hơn về văn chương. Với ông, văn chương chỉ là một cách để học làm người. Viết, là học khiêm tốn; đọc, là học lắng nghe. Và điều đáng sợ nhất của con người, theo ông, không phải là ngu dốt, mà là tự tin rằng mình đúng.

Cái “đúng” mà ông nói tới không phải là chân lý logic, mà là cái ngã. Khi cái ngã lớn lên, lòng nhân biến mất. Khi lòng nhân mất, mọi lý tưởng trở thành bạo lực. Chính vì nhìn thấy điều đó trong kháng chiến, ông rời bỏ Việt Minh. Ông không bỏ vì sợ, mà vì không muốn phụng sự cho một chân lý đã quên mất con người. Từ đó, ông chọn viết – như một hình thức phản tỉnh. Nhưng khác với các nhà văn chính luận, Doãn Quốc Sỹ không lên án; ông chỉ soi rọi. Ánh sáng của ông không làm chói mắt, mà làm hiện hình.

Triết học của ông là triết học của “từ bi tỉnh thức.” Ông tin rằng cái thiện không cần tuyên bố; nó chỉ cần được sống. Trong triết lý phương Đông, từ bi thường gắn với lòng thương; nhưng nơi ông, từ bi gắn với hiểu biết. “Thương mà không hiểu là thương mù quáng; hiểu mà không thương là hiểu vô ích.” Câu nói ấy, nếu đặt trong bối cảnh xã hội phân cực của thế kỷ XX Việt Nam, là một tuyên ngôn không lời. Vì thế, ông trở thành một loại triết nhân thầm lặng: không giảng đạo, mà sống đạo.

Điều kỳ lạ là: dù bị bắt, bị tù, bị lưu đày, Doãn Quốc Sỹ không bao giờ biến khổ đau thành vũ khí. Ông không viết để tố cáo, mà để thanh lọc. “Vào Thiền” không phải là cuốn sách dạy thiền, mà là một bản ghi lại hành trình làm người sau đổ nát. Trong từng trang sách, ta thấy một con người vừa yếu đuối vừa kiên cường, vừa sợ hãi vừa vững vàng. Ông không hề giấu đi nỗi mệt mỏi của mình; nhưng chính sự thành thật ấy khiến ông gần gũi. Khi ông nói “Đối cảnh vô tâm,” đó không phải là tuyên ngôn của người đã giác ngộ, mà là tiếng nói của người đang học cách bình thản trong từng khổ đau.

Trong Vào Thiền, có một đoạn rất ngắn mà tôi cho là linh hồn tư tưởng của ông: “Hãy để cho tâm mình trở thành như mặt hồ phẳng lặng. Khi cơn gió của đời thổi qua, nó sẽ chỉ gợn lên chút xao động rồi lặng lại. Đừng xua gió, đừng ghét gió. Vì gió đến để nhắc ta rằng hồ vẫn còn sống.” 

Đó là cách ông nhìn thế giới: không phải tách mình khỏi nó, mà chấp nhận nó trong sự tĩnh lặng. Đời sống không phải là thứ để chạy trốn, mà là nơi để thực tập sự trong sáng. Người khác vào thiền để thoát đời; ông vào thiền để sống sâu hơn trong đời. Chính vì thế, ông được xem như người nối tiếp dòng “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông — sống giữa bụi trần mà lòng vẫn như sen nở.

Ở tầng sâu hơn, tư tưởng Doãn Quốc Sỹ là một phản ứng hiền hậu đối với cả chủ nghĩa duy lý phương Tây và ý thức hệ toàn trị phương Đông. Ông không phủ nhận lý trí, nhưng cũng không thần thánh hóa nó. Ông biết rằng lý trí giúp con người chế ngự thế giới, nhưng chỉ có từ tâm mới cứu con người khỏi chính mình. Với ông, văn minh là sản phẩm của lý trí; còn nhân phẩm là hoa trái của lòng nhân. Một xã hội có thể phát triển mà vẫn tàn nhẫn, như một cơ thể khỏe mạnh mà trái tim lạnh. Bởi thế, điều ông mơ ước không phải là một Việt Nam giàu có, mà là một Việt Nam hiền.

Có người từng hỏi: “Nếu không có triết học chính trị, không có chủ nghĩa, làm sao giữ được niềm tin?” Ông đáp: “Tin vào điều thiện là đủ.” Câu nói ấy nghe đơn giản, nhưng là cả một triết học. Bởi tin vào điều thiện không phải là tin rằng thế gian sẽ tốt; mà là tin rằng ta vẫn có thể tốt, dù thế gian xấu. Chính ở đó, Doãn Quốc Sỹ đạt tới chiều sâu của đạo học: cái thiện không phải là kết quả, mà là thái độ sống. Một người hiền không vì đã hết giận, mà vì biết mỉm cười giữa cơn giận. Một người an không vì không còn lo, mà vì biết ôm lo mà không khổ. Ông là hiện thân của điều ấy – một con người vừa triết lý vừa bình dị, vừa tôn giáo vừa nhân văn.

3. DI SẢN VÀ THẾ HỆ KẾ TỤC

Khi một người như Doãn Quốc Sỹ rời cõi tạm, ta không chỉ mất một nhà văn, mà mất một phương hướng sống. Ở thời đại của tốc độ, ông là biểu tượng của sự chậm; giữa thời ồn ào, ông là biểu tượng của tĩnh; trong một thế kỷ mà con người nói nhiều về tự do nhưng sống trong sợ hãi, ông là hình ảnh của tự do nội tâm. Di sản của ông không nằm trên giá sách, mà nằm trong cách ông đi, ông ngồi, ông cười – trong cái nhẹ của một linh hồn đã biết trọng lượng của đời.

Có thể nói, Doãn Quốc Sỹ đã để lại cho chúng ta ba gia tài vô hình:

Thứ nhất, là đức tin vào con người 

Không phải đức tin tôn giáo, mà là niềm tin nhân sinh. Ông tin rằng con người có thể tốt hơn bản năng của mình. Văn chương ông không tô hồng, không vẽ thiên đàng; nó chỉ mời ta nhìn vào lòng mình, để thấy rằng thiện lương không ở đâu xa. Ông không xây tháp ngà cho nghệ thuật, mà dựng một mái chòi cho tâm hồn. Ai bước vào đó cũng thấy mình được tha thứ. Có lẽ, đó là lý do vì sao người đọc Doãn Quốc Sỹ – dù ở miền Nam, miền Bắc hay hải ngoại – đều cảm thấy được an ủi. Bởi ông không dạy họ phải sống sao, chỉ nhắc rằng: hãy sống sao cho tâm còn mềm.

Thứ hai, là đức độ làm người trí thức

Một người viết có thể có tài mà không có đức; có thể có tư tưởng mà thiếu khiêm cung. Nhưng Doãn Quốc Sỹ không thuộc về kiểu ấy. Ở ông, tri thức và đức hạnh là hai mặt của một tấm gương. Cái biết chỉ có ý nghĩa khi cái tâm đã sáng. Trong một thời đại mà chữ nghĩa dễ bị dùng như vũ khí, ông giữ nó như hương. Ông viết để thanh lọc chứ không để chiếm lĩnh. Ông không tìm học trò, nhưng ai đọc ông đều trở thành học trò. Đó là sự dạy dỗ bằng hiện diện — không cần lớp học, không cần bục giảng, chỉ cần ông ngồi yên.

Thứ ba, là một mẫu hình Việt Nam hiền triết

Doãn Quốc Sỹ là sự gặp gỡ của ba dòng tư tưởng: Nho, Lão, Phật – nhưng ông không hề pha trộn mà dung hòa. Từ Nho, ông giữ lòng nhân; từ Lão, ông học sự buông; từ Phật, ông thấu vô thường. Khi các nhà tư tưởng phương Tây đi tìm siêu hình học để chống lại hư vô, thì ông chỉ cần một hơi thở ra. Khi thế giới còn tranh luận về hiện sinh và phi lý, thì ông đã sống điều đó một cách nhẹ nhàng: con người chỉ cần nhận biết chính mình. Như vậy, ông không chỉ là một nhà văn Việt Nam, mà là một người Việt toàn phần, trong nghĩa cao nhất của từ ấy – người biết hiền mà không yếu, biết tỉnh mà không lạnh, biết buông mà không bỏ.

Với thế hệ chúng tôi – những kẻ sinh sau, lớn lên giữa tiếng ồn của thị trường và lẫn lộn của giá trị – Doãn Quốc Sỹ là một tấm gương soi ngược. Ông nhắc rằng văn hóa không nằm trong khẩu hiệu, mà trong nhân cách; rằng sự tiến bộ không phải ở tốc độ, mà ở hướng đi. Mỗi khi đọc lại câu ông nói, “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp,” tôi lại hiểu thêm một tầng ý nghĩa: nghề là cái ta chọn, còn nghiệp là cái chọn ta. Và cái nghiệp viết của ông – cũng là nghiệp chịu đựng, nghiệp yêu thương – đã chọn ông suốt trăm năm.

Khi người ta bàn về “thế hệ kế tục,” ta hay nghĩ tới những người cầm bút sau. Nhưng thật ra, di sản của Doãn Quốc Sỹ không đòi người viết kế thừa, mà đòi người sống tiếp tục. Mỗi ai còn biết mỉm cười giữa bất công, biết nhẹ giọng giữa tranh cãi, biết giữ tâm sáng giữa hỗn mang – người đó đã kế thừa ông. Nhà văn có thể mất, tác phẩm có thể cũ, nhưng cách sống vẫn còn truyền được, nếu ta chịu lắng.

Trong một lần hiếm hoi, khi được hỏi: “Thưa thầy, làm sao để giữ niềm tin trong thời đại này?” – ông chỉ mỉm cười và đáp: “Đừng giữ, cứ sống.” Câu trả lời ấy đủ làm tan hết mọi giáo điều. Vì giữ là sợ mất, mà sợ mất thì đã mất rồi. Còn sống, là để tin, tự nhiên. Tư tưởng ấy – giản dị mà mênh mông – là viên ngọc cuối cùng trong di sản tinh thần Doãn Quốc Sỹ.

Tôi nhớ lại hình ảnh ông ngồi giữa Houston, nghe bạn bè nói chuyện đời, chỉ mỉm cười, thỉnh thoảng buông một câu: “Thế đấy!” Hai chữ ấy, nếu đặt vào tay người đời, có thể là buông xuôi. Nhưng trong miệng ông, nó là chứng ngộ. Nó là tiếng thở ra của một linh hồn đã hòa vào nhịp thở của vũ trụ. Và có lẽ, ở khoảnh khắc ông trút hơi cuối cùng, cũng là một tiếng “Thế đấy!” nữa – không bằng lời, mà bằng im lặng.

Sau ông, thế hệ chúng tôi sẽ tiếp tục đi – đi trong một thế giới khác, với những biến động khác. Nhưng cái mà chúng tôi mang theo, không phải là những cuốn sách cũ, mà là tinh thần ấy: tinh thần của một người đã sống suốt trăm năm mà không để bụi thời gian làm mờ ánh sáng trong mắt. Ông dạy chúng tôi biết cách vừa hiện diện, vừa buông bỏ. Biết rằng nhân cách không cần được dựng lên; nó chỉ cần được giữ vững. Biết rằng tự do không phải là thắng kẻ khác, mà là thắng chính mình.

Di sản ấy – không ai chép lại được, không ai đo lường được – chỉ có thể được truyền bằng sự lặng lẽ. Như ngọn nến truyền lửa cho ngọn khác, không mất ánh sáng nào. Mỗi thế hệ sau này, nếu còn nhớ đến ông, xin hãy nhớ không phải bằng tượng, bằng tên đường, mà bằng thái độ sống: một nụ cười hiền, một cái nhìn không phán xét, một hơi thở an nhiên.

Bởi cuối cùng, Doãn Quốc Sỹ đã dạy ta một điều giản dị nhất mà cũng sâu xa nhất:

Sống là một cách Thiền. Viết là một cách thương. Tha thứ là một cách hiểu. Và hiểu, thương, tha thứ — chính là ba nhịp thở còn lại của một linh hồn Việt Nam đã đi qua thế kỷ, lặng lẽ, trọn vẹn, và vĩnh viễn.

Thầy đi, gió vẫn hiền, sông vẫn chảy, chữ vẫn thơm như đạo.

Con ở, lòng còn sáng, đời còn động, tâm còn hướng về Thầy.

NGUYỄN QUỐC BẢO

THƯ GỬI ANH SỸ - Nhã Ca, Trần Dạ Từ

 Thưa Anh,

Anh em chúng ta, ngoài sách vở, chữ nghĩa, không còn gì quan trọng bằng đã đọc cuốn sách đời của nhau.

Từ-Nhã, như tiếng gọi thân tình của Anh. Cô Nhã, chú Từ; như tiếng gọi thương yêu của Chị. Nói như anh Mai Thảo: đó là tâm thái. Tâm thái giữa anh em chúng ta, giữa gia đình chúng ta.

Phan Tấn Hải gọi văn của Anh là văn viết cho nền văn học thần thoại, gọi tâm thái của Anh là nụ cười rất mực Niết Bàn.

Trong “thiền”, để đạt tới cảnh thanh thoát, thanh thản, cảnh giới của Bồ Tát Quán Tự Tại đã thoát khỏi hai kiếp, chấp thế gian, chấp an lạc, đã mấy ai “xuất thế gian” để đạt được nụ cười như thế.

Đỗ Quý Toàn nói về anh: Khi đi tù, cai ngục bắt đi nghe thì đi, có gì ăn thì ăn, lúc nào ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ 2, Ông vẫn như vậy. Lại ngồi thiền: Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay. Vững như núi đá.

Với Nhã, viết hai câu thơ “Phật tánh trong tâm. Nụ cười Ca Diếp.” chính là hình ảnh người anh quý mến.

Hôm nay, nhẹ như mây, anh mang theo nụ cười Niết Bàn, nụ cười Ca Diếp về cõi Phật. Chị đang chờ đón anh để hai nụ cười hợp chung thành một đóa Tâm Hương dâng lên Tam Bảo.

Rồi thì: Không sao! Giọng của Từ. Anh Em ta sẽ gặp nhau thôi. Và “thế đấy”: Từ Nhã nghe tiếng anh trả lời.

Kính tiễn Anh.


PHÂN ƯU - Nguyễn Quyết Thắng

Sự ra đi của Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ ở tuổi 103 là một sự kiện mang tính lịch sử. Đặc biệt hơn, khi tin buồn này đến trong không gian trừ tịch ẩm lạnh của châu Âu về đêm, nó tạo nên một nỗi hoang mang lớn lao: sự trống rỗng của kẻ ở lại, giữa một thế giới đang tiếp tục xoay vần, mà thiếu đi một nhân chứng vĩ đại.

Mặc dù ở tuổi 103 là một hành trình dài và trọn vẹn, nhưng khi một cây đại thụ ngã xuống, khoảng trống mà nó để lại không chỉ là sự mất mát của một cá nhân, mà là sự đứt gãy của một nhịp cầu góp mặt. Đối với những người như tôi người chỉ có duyên gặp gỡ đôi lần —cảm xúc lại càng thêm chân thật và thâm thúy.

Những ký ức không nhiều nhưng lại đủ để nhớ, bởi lẽ, mỗi lần gặp gỡ ông, đều là những lần ta được tiếp xúc với tinh thần minh triết và tấm gương đạo đức nơi ông.

Trước hết, Doãn Quốc Sỹ được biết đến là một nhà giáo mẫu mực. Ông không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn là người thắp lửa văn minh cho nhiều thế hệ học trò.

Trong vai trò là Giáo sư, đặc biệt tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, ông đã thể hiện một phong cách giáo dục nhân bản và khai phóng. Ông dạy học trò cách tư duy một cách độc lập, cách đặt câu hỏi về số phận và xã hội, chứ không phải cách chấp nhận những khuôn mẫu có sẵn. Ông là biểu tượng của tính chính trực trí thức—một người luôn giữ vững lập trường đạo đức và không dễ dàng bị khuất phục trước những sức ép của thời cuộc.

Tấm gương ông để lại là bài học về sự thượng tôn lý tưởng, về việc giữ gìn sự thanh cao của nghề giáo, dẫu cho vòng xoáy lịch sử có cuồng quay đến mấy. Đối với nhiều thế hệ thanh niên, ông không chỉ là thầy mà còn là một kim chỉ nam đạo đức trong thời buổi loạn ly va lao tù.

Nếu Doãn Quốc Sỹ là một nhà giáo nghiêm túc trên bục giảng, thì ông lại là một nhà văn thâm trầm và cô độc trên trang giấy. Văn chương của ông mang nặng âm hưởng của chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), đi sâu vào phân tích tâm lý phức tạp của cá nhân trước những lựa chọn sinh tử, sự vô nghĩa của chiến tranh, và khủng hoảng niềm tin.

 Sự Thâm Thúy Trong Lời Văn: Văn phong của ông không dễ dãi, nó đòi hỏi sự chiêm nghiệm. Ông không mô tả sự vật một cách hời hợt, mà lật sâu vào những góc khuất tối tăm nhất của tâm hồn con người, đặc biệt là tâm lý của người lính, người trí thức trong cơn bão chiến tranh (Khu Rừng Lau). Những nhân vật của ông thường là những người đau khổ tìm kiếm ý nghĩa trong một thế giới hỗn loạn.

 Giá Trị Bất Biến: Các tác phẩm của ông không chỉ dừng lại ở sự phản ánh hiện thực, mà còn mang tính tiên tri và triết học. Ông đã định hình một phần quan trọng của văn học miền Nam, đưa ra những câu hỏi lớn về nhân tính, tự do và trách nhiệm cá nhân—những chủ đề vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.

 Chất Lãng Mạn U Buồn: Trong sự khắc nghiệt của chủ nghĩa hiện sinh, văn ông vẫn phảng phất một chất lãng mạn u buồn, một nỗi niềm hoài vọng về những giá trị cũ, về vẻ đẹp đã mất, khiến người đọc vừa sợ hãi vừa bị cuốn hút.

Cuộc đời 103 tuổi của Doãn Quốc Sỹ là một thiên trường ca bi tráng. Ông là người chứng nhân hiếm hoi của hầu hết lịch sử cận đại Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, qua hai cuộc chiến tranh, đến cuộc sống tị nạn. Sự trường thọ của ông là một ân huệ lịch sử, giúp ông trở thành kho tàng sống của kinh nghiệm và trí tuệ.

Dù phải trải qua nhiều thăng trầm, gian truân, ông vẫn giữ vẹn sự chính trực của một nhà văn và một trí thức. Ông đã sống bằng ngòi bút của mình, bằng tinh thần không thỏa hiệp với sự giả dối và bạo tàn. Sự ra đi của ông, vì thế, không chỉ là sự kết thúc của một đời người, mà là sự hoàn tất của một sứ mệnh — sứ mệnh giữ vẹn hồn Việt, giữ vẹn ngọn lửa chân lý và nhân bản trong suốt một thế kỷ đầy biến động.

Giữa đêm Âu Châu này, xin được cúi đầu tiễn biệt Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Những kỷ niệm thưa thớt của tôi với ông, sẽ mãi mãi là những viên ngọc quý trong hành trang tinh thần của bản thân tôi.

Ông đã vượt qua giới hạn của một nhà văn hay một nhà giáo để trở thành một bậc trưởng thượng tinh thần, như một người cha, như một người chú gần gũi với tôi cũng như bao nhiêu bằng hữu khác.

Sự mất mát này là một nỗi tiếc thương chung. Dù ít gặp gỡ, sẽ không bao giờ quên những di sản và tấm lòng của Doãn Quốc Sỹ đã chạm đến chúng ta qua những thời gian và không gian.

Niềm quý mến chân thành ấy sẽ là mãi mãi, và tôi xin được chia sẻ nỗi mất mát lớn lao này cùng gia đình ông .

Nguyễn Quyết Thắng dc



TIỄN ĐƯA DOÃN QUỐC SỸ (1923–2025) - Alex Thái


Hôm nay, khi chúng ta tiễn đưa Doãn Quốc Sỹ (1923–2025) — một con người mà cuộc đời đãtrải dài hơn một thế kỷ lịch sử Việt Nam, qua chiến tranh và hòa bình, qua những chế độ thay đổivà không ngừng tái định nghĩa ý nghĩa của sự thuộc về. Ông không chỉ là một tiếng nói của ViệtNam Cộng Hòa mà ông là một trí thức của Việt Nam và của đời, trong toàn bộ những giằng covà nghịch lý của nó.

Khi tưởng nhớ ông, tôi vẫn mãi bị ám ảnh bởi một câu nói:

“Đời chỉ là một canh bạc bịp mà người thua luôn luôn là đám dân hiền không tên không tuổi.”Câu nói ấy, bằng một sự thẳng thắn không khoan nhượng, đã phơi bày canh bạc nghiệt ngã củalịch sử, nơi mà những con người bình dị, vô danh, lặng lẽ lại luôn là những kẻ gánh chịu mất mátnặng nề nhất khi hệ thống sụp đổ, khi ý thức hệ thay nhau trỗi dậy rồi tan biến. Ông viết điều đókhông phải như một lời than thở tuyệt vọng, mà như một lời chứng, một lời nhắc nhở, và mộtthách thức cho những ai kế thừa câu chuyện của một đất nước từng bị chia đôi và vẫn phân cách.

Sinh tại Hà Đông năm 1923, Doãn Quốc Sỹ đã đi qua nhiều ngưỡng cửa của thời cuộc: từ cội nguồn ở đất Bắc, đến di cư, đến giảng đường Sài Gòn, đến nhà tù, rồi cuối cùng là nơi lưu vong. Ông là mộtnhà giáo, một tiểu thuyết gia, một nhà xuất bản. Ông đồng sáng lập Sáng Tạo cùng Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp — thúc đẩy tinh thần hiện đại trong văn học, nuôi dưỡng những tiếng nói có thể đã bị dập tắt.

Ông đã sống trọn trong những biến động chính trị, những năm tháng bị giam cầm, kiểm duyệt, vàlưu đày. Sau năm 1975, ông bị bắt cùng nhiều văn nghệ sĩ miền Nam bị quy kết là “phá hoại vănhóa” và phải chịu đựng nhiều năm tù đày. Thế nhưng, ngay trong bóng tối ấy, ngòi bút của ôngvẫn không ngừng nghỉ bởi ông tiếp tục sống và viết, tiếp tục chống lại sự lãng quên. Đến năm1995, ông được sang định cư ở hải ngoại, mang theo toàn bộ di sản văn chương và tinh thần của mình đến cộng đồng người Việt lưu vong.

Những tác phẩm của ông - Khu Rừng Lau (4 tập), U Hoài, Vào Thiền, và nhiều tác phẩm khác - không chỉ tồn tại như văn học, mà như những chứng từ đạo đức. Ngòi bút của ông mềm mại mà kiên định, không khuất phục trước bất kỳ phe phái hay quyền lực nào. Ông đặt nền tảng cho văn chương của mình không ở ý thức hệ, mà ở con người — trong những thân phận bị bật rễ, những mất mát, và trong nghịch lý giữa trung thành và lưu đày.

Tôi thăm ông chỉ hơn ba tuần trước, khi ông nhấp một ngụm rượu vang đỏ, trong không khí trầm ngâm nói về những “nhân vật của đời sống.” Giờ đây, tôi đang ở Việt Nam, ngồi trên một chiếc Grab, trò chuyện cùng một người tài xế “vô danh” về những nhọc nhằn của cuộc sống, trong khi tâm trí tôi lặng lẽ trôi về tin ông đã ra đi.

Tôi cảm thấy vừa biết ơn, vừa xao xuyến khẩn thiết. Biết ơn vì một đời sống kiên định, không bao giờ chịu im tiếng; và khẩn thiết vì di sản của ông vẫn đang gọi ta phải tiếp nối. Ông đã cảnh báo từ lâu: trong canh bạc bịp của cuộc đời, kẻ thua luôn là những người vô danh, hiền lành, không có tiếng nói.

Lời ông vẫn còn vang vọng đâu đó, giữa âm thanh ồn ã của thành phố và sự tĩnh lặng của tưởng niệm — như một lời nhắc rằng làm chứng, ngay cả trong lưu vong, cũng là một hành động của niềm tin.

Nguyện mang ký ức về ông đi tiếp, bằng cách lắng nghe những câu chuyện của những người bị lãng quên, bằng cách hiểu rằng văn chương không phải là chốn trốn chạy, mà là một hình thức làm chứng, và bằng cách hành động để những “dân hiền không tên không tuổi” kia không còn mãi là những kẻ thua cuộc.

An nghỉ nhé, ông/thầy Sỹ.

Di sản của ông/thầy vẫn là ngọn đuốc trong tay chúng tôi và thế hệ tương lai.

***

Today, as we mark the passing of Doãn Quốc Sỹ (1923–2025), a man whose life spanned acentury of Vietnamese history — in war and peace, under regimes that shifted and redefined belonging. He was more than a voice of the Republic of Vietnam; he was an intellectual of Vietnam and of life, in all its tensions and contradictions.

In remembering him, one line of his lingers with me: “Đời chỉ là một canh bạc bịp mà người thua luôn luôn là đám dân hiền không tên không tuổi.” [Life is nothing but a rigged game in which the losers are always the gentle, nameless, ordinary people.]

That aphorism captures, in unflinching clarity, the tragic wager of history — that the “common folk,” the nameless, the quiet souls, often bear the heaviest losses when systems collapse, when ideologies rise and fall. He wrote it not as a despairing lament but as testimony, as witness — and as a challenge to those of us who inherit the stories of a divided land and people.

Born in Hà Đông in 1923, Doãn Quốc Sỹ crossed many thresholds: from northern roots, to migration, to the classrooms of Saigon, to imprisonment, to exile.  He was a teacher, a novelist, a publisher. He co-founded Sáng Tạo alongside Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp — pushing literary modernism, nurturing voices that might otherwise have been silenced.

He lived through political upheaval, imprisonment, censorship, and exile. After 1975, he was arrested among other southern writers and artists labeled “cultural saboteurs” and endured years of confinement. Yet even there, his pen did not rest: he continued to write, to resist invisibility.

Ultimately, he was able to emigrate in 1995 and carry his oeuvre and spirit into the Vietnamese diaspora. His works — Khu Rừng Lau (a four-volume epic), U Hoài, Vào Thiền, and many more — persist not only as literature but as moral testimony. 

His pen was gentle but unrelenting. He refused easy allegiances and instead anchored his writing in the human — in lives uprooted, in losses, in the paradoxes of fidelity and exile.

I visited him just a little over three weeks ago, sipping red wine, reflecting quietly on the characters of life. Now, here I am in Vietnam, riding in a Grab car, speaking with a “nameless” driver about the struggles of ordinary people, while my mind drifts to the news of his passing.

I feel both gratitude and urgency—gratitude for a life that refused to be silenced, urgency for what his legacy asks of us. He warned us long ago: in life’s rigged game, it is always the nameless, the gentle, the voiceless who pay the price when systems betray them.

His words echo still, somewhere between the hum of the city and the silence of remembrance—a reminder that bearing witness, even in exile, is its own act of faith.

May we carry his remembrance forward by listening to the stories of those left voiceless, by knowing that literature is not escapism but a form of bearing witness, and by acting so that those “dân hiền không tên không tuổi” are not always the ones to lose.

Rest in peace, ông/thầy Sỹ. Your work remains a torch in our hands.

Alex Thái

Oct 12, 2025

NHÀ VĂN, NHÀ GIÁO DOÃN QUỐC SỸ ĐÃ THONG DONG VỀ TRỜI! - Đinh Quang Anh Thái

à ơi…

trời vẫn xanh

mây vẫn trắng

và nắng vẫn hồng

thu về đậu nhánh ngô đồng chiều nay

à ơi…thảng thốt heo may

tiếng chuông, câu kệ vơi đầy xa xa

giàn hoa rụng trắng hiên nhà

liêu xiêu bóng đổ chiều tà …à ơi

nhớ ai chim hót không lời

nhớ ai cá lội chơi vơi giữa giống

à ơi…con gió mênh mông

đưa con hạc trắng thong dong về trời


Doãn Quốc Vinh KHÓC BỐ SỸ - Mùa Thu Ất Tỵ 2025


***


Cụ Doãn Quốc Sỹ đã thành con hạc trắng thong dong về trời!

Ngay sau khi Cụ Sỹ lìa trần, tin tức về sự ra đi của Cụ được báo chí và các cơ quan truyền thông Việt ngữ hải ngoại loan tải rộng rãi.  Rất nhiều người vIết bài ca ngợi nhân cách của cụ.

Truyền thông do nhà nước Hà Nội kiểm soát thì “im thin thít”, không có một giòng nào nói về tác giả Khu Rừng Lau.

“Thế đấy”! Cụ nằm xuống rồi mà vẫn còn là nỗi ám ảnh dai dẳng đối với chế độ.

Hôm biết tin Cụ Sỹ mất, anh Tiến, một anh bạn tôi, gọi điện thoại, nói: “Tôi chưa đọc tác phẩm nào của ông Doãn Quốc Sỹ, nhưng mấy ngày nay đọc báo thấy nhiều người ca ngợi ông Sỹ, tôi muốn dự đám tang ông được không?”

Hôm tôi đi mua thuốc uống tại một nhà thuốc Tây ở Quận Cam, tôi gặp một người đàn ông trạc ngoài 50 tuổi, chân và tay bị dị tật, ông dùng tay trái vẫy vẫy gọi tôi.  Tôi đến gần, ông nói bằng giọng khó khăn, ngọng nghịu “Doãn Quốc Sỹ, Doãn Quốc Sỹ” và ông giơ hai ngón tay cái lên trời, dấu hiệu hàm ý ngợi khen (number one).  Ông còn đan chéo hai tay với nhau, như bị còng tay, và cố nói thành tiếng “75, 75, Doãn Quốc Sỹ, Doãn Quốc Sỹ”.

Trước tang lễ Cụ một ngày, tôi vừa bước ra khỏi một tiệm cà phê trên đường Bolsa thì một ông đi vội theo tôi ra bãi đậu xe, ông tự giới thiệu tên ông là Thắng và nói: “Ngày mai tang lễ ông Doãn Quốc, tôi không được hân hạnh biết ông Sỹ và cũng không quen ai trong gia đình ông Sỹ, nhưng tôi muốn đến kính biệt ông Sỹ được không?”

Ông Thắng còn ngỏ ý nhờ tôi tìm mua giùm ông trọn bộ tác phẩm của tác giả “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều”.

***

Cụ Doãn Quốc Sỹ đã thành con hạc trắng thong dong về trời!

Lúc sinh thời, nhưng người từng được gặp Cụ, được tiếp chuyện với Cụ đều thấy nơi cụ thái độ khoan hòa, thanh thản, an nhiên, tự tại.  Cảm nhận riêng của tôi, Cụ là mẫu người “chiếc chiếu trải không ngay không ngồi, miếng thịt cắt không vuông không ăn”.  Những năm tháng sau 75 Cụ bị chế độ cầm tù, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Cụ vẫn giữ được phong thái an bình; đói không làm Cụ vật vã; khát không làm Cụ suy suyển; dù nóng, dù lạnh, Cụ vẫn “bình tâm như vại”.

Trong tù,  Cụ không lên án, không chỉ trích, không hận thù. Cụ chỉ dửng dưng đối với mọi đòn thù của chế độ.

Khi người ta lên án, chỉ trích, hận thù, tức là còn xem đối tượng là con người.  Còn khi người ta dửng dưng, tức là đối tượng chỉ là đồ vật, là cái bàn, là cái ghế…

Thái độ dửng dưng của Cụ khiến kẻ thù căm ghét Cụ, vì Cụ xem họ không có bộ mặt người. 

Sau khi thoát khỏi nhà tù, Cụ vẫn thế, Cụ trước sau vẫn như một, luôn an nhiên tự tại.  Những lần được hầu chuyện cụ, nhắc về một thời đã qua, cụ hỏi tôi “cháu ở tù có khổ lắm không, có đói lắm không, có nhớ nhà lắm không…”; cách hỏi han của Cụ cứ y như Cụ chưa một ngày bị tù đày, dù thời gian Cụ trải qua sau chấn song sắt dài gấp ba lần tôi chịu đựng.

***

Đêm trước ngày tang lễ Cụ, đọc lại tập thơ của Phùng Cung, tôi xin trích bốn câu sau đây của tác giả “Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh”:

Mồ hôi mẹ

Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt

Con níu giọt mồ hôi

Đứng dậy làm người


Cụ Doãn Quốc Sỹ đã thành con hạc trắng thong dong về trời!

Cá nhân tôi – và tôi tin là nhiều người cùng tuổi tôi, lứa tuổi con cháu của Cụ Sỹ - nhìn về cố quốc, thấy quê nhà vẫn còn có quá nhiều điều khiến chúng tôi trăn trở; và tại quê hương thứ hai này, cũng không thiếu điều bất toàn, cho nên có nhiều lúc chán nản, xuống tinh thần, tôi xin mượn câu thơ của Phùng Cung:

Xin NÍU LẤY NHÂN CÁCH CỦA CỤ DOÃN QUỐC SỸ ĐỂ ĐỨNG DẬY LÀM NGƯỜI TỬ TẾ.

- Đinh Quang Anh Thái

DOÃN QUỐC SỸ: THẾ ĐẤY - Đỗ Quý Toàn

Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại sao? Ông cười khà khà: “Mất xe rồi! Anh nào nó lấy mất rồi!”

Cái xe Daitzu ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cái xe là cả một tài sản, và phương tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai kể một chuyện hài hước!

Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không bao giờ trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi thì đi, bảo nghe gì thì nghe. Có gì ăn thì ăn, ngủ thì ngủ, lúc nào được. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như đá.

Khi Doãn Quốc Sỹ được trả tự do, qua Mỹ, tôi đến thăm ông ở Houston, Texas. Ông khỏe mạnh, tôi ngạc nhiên thấy hàm răng ông rất tốt, trong khi các bạn bè tôi bị cộng sản bỏ tù mấy năm là đã hư hết răng. Hỏi, ông cho biết vì mỗi ngày đều súc miệng bằng nước muối. Từ thủa nhỏ “thầy, đẻ” dạy làm như thế,  cả đời ông cứ làm thế. 

Trong ngôi nhà của Quốc Thái ở Houston, một nhóm khách cùng tò mò thăm hỏi những kinh nghiệm ở tù 2 lần, 14 năm; nhưng ông chỉ nói mấy câu sơ sài; hình như không thấy chuyện gì đáng kể lại. Ông ngồi im nghe chuyện của đám bạn trẻ, và họ nói khá nhiều, hầu hết bàn tán về thế giới người Việt ở địa phương. Tất nhiên, người ta kể chuyện các hội đoàn, các nhân vật nổi tiếng hoặc nhiều tai tiếng, kẻ khen, người chê, tranh nhau nói không dứt lời.

Hôm đó, lần đầu tiên được ngồi lâu với ông, tôi mới nhận ra là Doãn Quốc Sỹ chỉ im lặng nghe, miễn cưỡng lắm mới nói, nói rất ngắn. Miệng lúc nào cũng mỉm cười. Khi một người hướng về phía ông, nói lớn tiếng cho ông chú ý, ông chỉ đáp một câu, “Thế Đấy!” Đám bạn trẻ kể chuyện sinh hoạt ở Houston, hùng hồn phê bình người này người kia. Ông ngồi nghe, không buông một lời khen, chê, không bình phẩm, không phụ họa mà cũng không bài bác. Nghe chuyện xấu hay tốt ông cũng chỉ cười, lâu lâu mới góp một lời, “Thế Đấy!”

“Thế Đấy!”

Nếu diễn tả dài dòng thì hai tiếng “Thế Đấy” nghĩa là gì? Ah, cuộc đời nó như thế đấy! Ah! Con người ta như thế đấy! Thế Đấy, ở đời cứ cái này nó sẽ nảy sanh cái kia, như thế đấy! Đúng, cái nghiệp báo của loài người, nó diễn ra như thế đấy! Người ta gọi Đức Thích Ca là “Như Lai.” Nghĩa là con người đã “Đến như thế đấy.”

Doãn Quốc Sỹ nhìn cuộc đời với đôi mắt “Thế Đấy!” Nghe kể chuyện đời với đôi tai “Thế Đấy!”Cuộc đời chuyển động, lòng ông không lung lay.

Doãn Quốc Sỹ khiến chúng ta nhớ câu kệ của Trần Nhân Tông trong Cư Trần Lạc Đạo; một trong những bài văn suôi đầu tiên, theo lối “phú,” viết bằng chữ Nôm, chữ viết tiếng Việt Nam từ đời Trần. Cư Trần Lạc Đạo tức là sống ở trong cuộc đời, ở cõi trần tục, nhưng vẫn vui với Đạo. Đoạn cuối Cư Trần Lạc Đạo có bài kệ chữ Hán Việt, kết thúc với câu: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Hiểu theo nguyên văn là: Nếu “đối cảnh vô tâm” thì khỏi cần hỏi đến thiền.

Kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh, ở đoạn thứ tư trong phẩm thứ nhất, bài kệ thứ 26 đã nhắc đến “Tâm không lay động.” Đối cảnh vô tâm, là đứng trước cảnh ngộ bên ngoài, dù nó biến chuyển thế nào thì lòng mình cũng không lay động: Không phê phán sạch hay nhơ, hơn hay kém, đẹp hay xấu, trái hay phải; không nổi lên niềm vui sôi nổi hay nỗi buồn rầu rĩ; không mừng hay giận; không buôn tiếng khen ngợi hay lời chê bai.

Mở đầu đoạn thứ bẩy bài Cư Trần Lạc Đạo Trần Nhân Tông viết:

“Hãy xá vô tâm;

Tự nhiên hợp đạo.”

Vô tâm, là cái tâm trống trải. Tâm bỏ trống cho gió thổi qua. Trong hoàn cảnh nào cũng không để tâm mình xao xuyến. Những người theo học Bụt Thích Ca mong tu tập để có lúc đạt được trạng thái tâm lý đó, dù chỉ trong một thời gian ngắn cũng đáng gắng sức công phu.

Doãn Quốc Sỹ hầu như bẩm sinh đã mang sẵn một cái tâm kiên cố khó bị hoàn cảnh lay động.

Ông có phước mang sẵn tấm lòng trống trơn, ông không cần cố gắng.

Trong cuộc sống hàng ngày không biết ông tọa thiền lúc nào. Doãn Quốc Sỹ không báo trước khi ngồi xuống: “Tôi tập thiền đây;” hay là khi đứng dậy “Tôi ngồi thiền xong rồi.” Mỗi giờ phút trong đời sống của ông thể hiện một quá trình thiền tập. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, cởi dép, uống nước, nói năng, hầu như lúc nào ông cũng làm chủ thân và tâm. Đối cảnh, đứng trước cảnh ngộ biến đổi cách nào, ông cũng chỉ thốt lên một câu: “Thế Đấy!”

Người mang tánh bẩm sinh như vậy chắc phải đã tu nhiều kiếp trước! Cha mẹ sanh ra đã truyền cho hạt giống tốt, tự nhiên không nuôi lòng tham lam quá độ, không nổi cơn giận dữ dễ dàng.

Khi biết suy nghĩ thì tự thấy mình chỉ là một tập hợp tạm thời và ngắn hạn của ngũ uẩn (sắc, thọ tưởng, hành, thúc) như tất cả mọi chúng sinh. Nhờ thế không đeo đẳng một Cái Ta quá nặng trong đầu. Dứt trừ nhân ngã. Dừng hết tham sân. Như Trần Nhân Tông viết trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo:

Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương;

Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác.

Có lẽ tôi đã viết quá nhiều, nói quá lời, vì yêu mến, kính trọng Doãn Quốc Sỹ; không phải vì đọc văn chương của ông mà vì chiêm ngưỡng cách sống, cuộc sống bình thường hàng ngày, của ông. Không thể nói Doãn Quốc Sỹ là người “đối cảnh vô tâm.” Đó là một tuyệt đỉnh của công phu tu tập mà chúng tôi không dám thẩm định. Nhưng được gần gũi Doãn Quốc Sỹ ít lâu nay, tôi biết mình có thể học cách sống của ông, qua hai chữ “Thế Đấy!”

“Thế Đấy!”

Đứng trước bất cứ cảnh ngộ nào, nếu mình biết thốt ra tự đáy lòng hai chữ “Thế Đấy!” thì chắc cũng quý lắm rồi!

Đỗ Quý Toàn 


Chú Thích: Bài kệ trong Cư Trần Lạc Đạo như sau:

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia tung hữu bảo hưu tầm mịch,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

(Ở cõi trần vui với đạo, tùy theo cơ duyên. Đói thì ăn, mệt thì ngủ. Trong nhà đã có của báu. Đối cảnh vô tâm, khỏi hỏi chuyện thiền tập)


Phát Biểu Của Giáo Sư Trần Huy Bích, Cựu Học Sinh Trường Trung Học Nguyễn Khuyến Nam Định, Trong Tang Lễ Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ

Tôi xin được nói ít lời thay mặt các bạn của tôi, những học sinh của trường Trung học công lập Nguyễn Khuyến, thành phố Nam Định, niên khóa 1952-53, đúng 73 năm trước đây. Khi ấy chúng tôi ở lớp Đệ Ngũ, năm thứ ba bậc Trung học, sau gọi là Lớp 8. Thầy Doãn Quốc Sỹ được Nha Học chính Bắc Việt của chính phủ Quốc gia cử về làm giáo sư Quốc văn tại trường Nguyễn Khuyến đầu niên khóa 1952-53. và chúng tôi may mắn được học với Thầy.

Sau 5 năm ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như các nhân vật Kha, Hiển, Miên trong Ba Sinh Hương Lửa, người thanh niên Doãn Quốc Sỹ nhận ra bộ mặt thật của Cộng sản nên đã hồi cư về thành. Một mặt Thầy ghi tên tại Đại học Văn khoa Hà Nội để hoàn tất chương trình Cử nhân, mặt khác Thầy xin đi dạy học vì đã có gia đình. Chắc lúc ấy các trường Trung học công lập ở Hà Nội (như Chu Văn An, Nguyễn Trãi) đã có đủ giáo sư, nên Nha Học chính cử Thầy về Nam Định.

Trường Nguyễn Khuyến là hậu thân của trường Thành chung Nam Định. Trong thời Pháp thuộc, tại miền Bắc, bên cạnh những trường dạy chương trình Pháp như Lycée Albert Sarraut ở Hà Nội, hai trường Trung học đầu tiên dạy chương trình Việt (đúng ra là Pháp-Việt) là trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat, dân gian quen gọi là “trường Bưởi”) ở Hà Nội, và trường Thành chung Nam Định (Collège de Nam Dinh). Trong giai đoạn Pháp thuộc, nhiều nhân vật danh tiếng đã xuất thân từ trường này: các nhà văn Nguyễn Tuân, Nam Cao, nhạc sĩ Đặng Thế Phong, nhà giáo Hà Mai Anh, người dịch cuốn Tâm Hồn Cao Thượng…

Sang thập niên 1930, các giáo sư Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc cũng học ở trường này. Năm 1945, dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim, chính phủ đầu tiên của Việt Nam sau khi Pháp bị Nhật đảo chính, Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn đã đổi tên trường Trung học Bảo hộ thành trường Chu Văn An và trường Thành chung Nam Định thành trường Nguyễn Khuyến. Tên “trường Nguyễn Khuyến” bắt đầu có từ đó.

Trong những năm đầu của cuộc chiến tranh Việt Minh – Pháp, trường Nguyễn Khuyến phải di tản về Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Một trong những người Việt xuất sắc học ở Nguyễn Khuyến giai đoạn ấy là Gs Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh. Nói tóm lại, học sinh Nguyễn Khuyến chúng tôi có quyền coi những nhân vật như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Đặng Thế Phong, Hà Mai Anh, Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Xuân Vinh … là các vị “niên trưởng” của mình. Cũng có một số cựu học sinh trường Thành chung Nam Định sau thành cộng sản. Nhân vật được nhắc tới nhiều hơn cả là Trường Chinh Đặng Xuân Khu.

Trong ba lớp Đệ Ngũ Nguyễn Khuyến học Quốc văn với Thầy Doãn Quốc Sỹ niên khóa 1952-53 cũng nhiều người xuất sắc. Học giỏi, đạt tới địa vị cao trong học giới cũng như trong xã hội ở Việt Nam cũng như ở Mỹ là anh Nguyễn Mạnh Hùng. Theo ngành truyền thông, được nhiều người mến mộ là anh Lê Văn (tên thật là Lê Lai), từng là Trưởng ban Việt ngữ đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Ủng hộ Cộng sản, ở lại miền Bắc khi đất nước chia đôi là anh Trần Khuê (tên thật Trần Văn Khuê). Anh từng viết sách, làm thơ ca tụng lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh, nhưng từ năm 2000 trở đi, bắt đầu lên tiếng đòi tự do, dân chủ cho đất nước. Theo Thầy Sỹ trong nghiệp viết văn là anh Trần Duy Hinh, lấy bút hiệu là Thao Trường, sau đổi thành Thảo Trường. Anh viết nhiều truyện và truyện ngắn nói lên tâm trạng day dứt trước tình trạng đất nước chia đôi, rồi đến nỗi khổ của người dân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn, kết thúc bằng một chế độ độc tài toàn chế: Thử Lửa, “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp,” “Viên đạn bắn vào nhà Thục,” Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng. … Phía nữ sinh cũng nhiều chị lỗi lạc. Việt Nam từng có nữ Tiến sĩ Khoa học, nhưng vị nữ Kỹ sư đầu tiên là một cựu học sinh Nguyễn Khuyến, học trò Thầy Doãn Quốc Sỹ, chị Đỗ Thị Như Mai.

Nói chung, các bạn tôi ở ba lớp Đệ Ngũ trường Nguyễn Khuyến năm ấy rất kính trọng và quý mến Thầy Sỹ. Trước khi Thầy tới, đa số các giáo sư của Nguyễn Khuyến ở lớp tuổi trung niên hay cao hơn. Chúng tôi, lứa tuổi 15, 16, quen nhìn vị thầy qua hình ảnh một người cha. Năm ấy, ở tuổi 29, đang ghi danh theo Đại học và với dáng thân mật trẻ trung, Thầy Sỹ đã cho chúng tôi một vị thầy trong hình ảnh một người anh. Chúng tôi cảm mến Thầy vì Thầy ân cần và hiền hòa. Khi Thầy giảng bài, những anh bạn quấy phá nhất cũng chăm chú lắng nghe khiến lớp học yên tĩnh và trật tự.

Nhưng Thầy Sỹ không dạy chúng tôi trọn niên khóa. Chúng tôi được học với Thầy có nửa niên khóa thôi, từ khi khai giảng đến trước Tết Nguyên đán, danh từ thời ấy là trong “Đệ nhất lục cá nguyệt.” Khi Tết đến, Thầy về Hà Nội với gia đình nhưng lúc trở lại trường đầu năm mới Quý Tỵ 1953, chúng tôi được cho biết Thầy Sỹ không dạy ở Nguyễn Khuyến nữa. Nhà trường phải tìm cho chúng tôi một vị Thầy khác. Tuy ngẩn ngơ luyến tiếc, chúng tôi hiểu nguyên nhân và cũng mừng cho Thầy.

Tuy Nam Định chỉ cách Hà Nội 80 cây số nhưng trong thời chiến tranh, mỗi khi đêm tới, nhất là trong đoạn đường từ Nam Định đi Phủ Lý (khoảng 30 cây số), đường hay bị xẻ cắt. Cán bộ Việt Minh ở những làng hai bên đường ép dân ra phá đường. (“Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi, Hố ngang hố dọc chữ I chữ TỜ”—Thơ Tố Hữu). Nhiều khi họ còn gài mìn đường và nhiều cây cầu, nên xe hơi từ Nam Định đi Hà Nội và ngược lại tới 8, 9 giờ sáng mới có thể khởi hành. Các xe cũng phải đi thành một đoàn, có xe nhà binh và xe dò mìn đi dẫn đầu, với tốc độ rất chậm, nên có khi mãi 3, 4 giờ chiều mới tới nơi. Vì thế mỗi ngày chỉ có thể hoàn tất một chuyến đi. Thấy Thầy Sỹ xuống Nam Định để dạy học trong khi gia đình vẫn sống ở Hà Nội, chúng tôi phỏng đoán chỉ đến cuối tuần Thầy mới có thể về thăm. Việc Thầy không trở lại sau Tết Nguyên đán khiến chúng tôi hiểu rằng Thầy đã tìm được việc làm ở Hà Nội, và – tuy ngẩn ngơ luyến tiếc -- chúng tôi mừng cho Thầy.

Vào Nam sau 1954, chúng tôi được đọc nhiều tác phẩm của Thầy. Ai cũng ngưỡng mộ và say mê cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc với những truyện như “Chiếc chiếu hoa cạp điều.” Anh bạn thân Lê Lai (Lê Văn) của tôi đặc biệt thích Dòng Sông Định Mệnh. Dạy Quốc văn ở Trung học, tôi chọn nhiều đoạn trong Hồ Thùy Dương để đọc cho học sinh nghe. Sau những năm 1964, 1965, khi tình trạng Miền Nam căng thẳng với nhiều chuyện đáng lo, chúng tôi buồn khi đọc Ba Sinh Hương Lửa với những câu như “Lịch sử có định mệnh của nó,” “Chúng ta chưa đến thời. Phải để cho cộng sản thành công đã, nhiên hậu sự thành công của chúng ta mới bền…” “Bậc thức thời … đứng tít trên đỉnh cao, nhìn suốt dòng lịch sử, thấy trước những khúc quành phải kinh qua, họ cô độc thật!” Chúng tôi cũng xót xa khi thấy Thầy mượn lời của nhân vật trong truyện để thốt lên những câu:

Ai mang tôi đến chốn này

Bên kia không óc, bên này không tim.

Sau biến cố 1975, cùng những thân nhân của chúng tôi bị cộng sản giam giữ, chúng tôi theo dõi những năm tháng tù đầy của Thầy. Trong thời gian làm việc cho thư viện của Đại học UCLA, tôi tìm những tác phẩm của Thầy xuất hiện rải rác trong môt số thư viện Đại học Mỹ, dùng phương tiện Interlibrary loan mượn về, chụp lại, đưa đến người em ruột Thầy là chị Doãn Thị Quý, xin chị giữ để chuẩn bị sẽ có ngày in lại. Khi Thầy được anh Doãn Quốc Thái bảo lãnh sang Houston, những bạn Nguyễn Khuyến định cư ở đó như anh chị Nguyễn Khắc Minh & Đỗ Thị Như Mai thường lui tới thăm Thầy.

Khi Thầy đổi về sống ở California, chúng tôi, nhóm Nguyễn Khuyến ở đây tới thăm Thầy dễ hơn. Trong nhiều lần cựu học sinh Nguyễn Khuyến quây quần với nhau, nhất là khi có bạn Nguyễn Khuyến từ xa tới, chúng tôi thường mời Thầy đến với chúng tôi và Thầy vui vẻ, sốt sắng đến. Những năm gần đây hơn, sức khỏe Thầy kém trước, mỗi khi chúng tôi mời như thế, chị Doãn Cẩm Liên thường là người chở Thầy đến tham dự những buổi họp mặt của chúng tôi.

Kính thưa Quý vị,

Được học nhà giáo Doãn Quốc Sỹ từ năm 1952, được đọc nhà văn Doãn Quốc Sỹ từ năm 1956, tôi xin có một nhận xét thô thiển về vị Thầy của chúng tôi như sau.

Doãn Quốc Sỹ thường được coi là một bậc hiền giả, có tâm khoáng đạt, có cách nhìn bao dung. Trước nhiều chuyện, có khi khá trái tai gai mắt, ông thường chỉ nhẹ nhàng thốt lên hai chữ “Thế đấy!” Ông giữ được điềm tĩnh và dùng ngôn từ hiền hòa như thế có lẽ vì đã qua nhiều từng trải, và điều ấy cho ta thấy ông có từ tâm. Trên căn bản, ông rất thiết tha với quê hương, đất nước như việc viết cuốn Người Việt Đáng Yêu. Khi đặt tên các con, ông chọn những từ đẹp cho tên con gái: Ngọc Thanh, Kim Khánh, Cẩm Liên …. nhưng với tên con trai, ông chọn những chữ như Quốc Thái (“quốc thái dân an”), Quốc Hưng (quốc gia hưng khởi), Quốc Vinh, Quốc Hiển (mong đất nước vinh hiển, vẻ vang). “Đặt tên cho người, đặt tình yêu nước vào nôi” (Phạm Duy) có vẻ cũng là tâm trạng của ông. Điều ấy không thể không ảnh hưởng đến tư duy các con. Được biết trong địa chỉ email của anh Doãn Quốc Hưng có những chữ “người Việt Nam.” Có lẽ anh đã đồng cảm với thân phụ?

Kính thưa Thầy,

Thầy dạy chúng em rất nhiều về văn chương Việt Nam, nhưng nay khi “trả bài,” được các bạn trao cho nhiệm vụ viết ra ít hàng về Thầy, thì em thấy bâng khuâng không viết nổi. Em vốn vẫn ít chữ, chỉ xin Thầy cho phép được đọc 14 chữ kính dâng Thầy như sau:

Vế trên: Dân tộc lưu danh trang quốc sĩ

Vế dưới để đối lại: Văn chương in dấu bậc hiền nhân.

Để kính tiễn Thầy, em cũng xin được mượn lời của Nguyễn Du:

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh

Có chữ rằng “vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Chúng em xin thành kính bái biệt Thầy.

Trần Huy Bích


MÌNH LẠI SOI MÌNH (Tưởng nhớ bác DOÃN QUỐC SỸ) - Đoàn Khoa

Từ vài hôm trước, Doãn Vinh đã thông báo rằng sẽ phải thu xếp về Mỹ gấp vì ÔNG yếu lắm.

Tin này không mới và tôi cũng chẳng ngạc nhiên, thế nhưng trong tôi vẫn cảm thấy một nỗi xao xuyến lạ lùng.

Trước tình cảnh đó, Vinh lại “an ủi” ngược:

-Ông cụ trên trăm tuổi rồi - lẽ thường thôi!

Đành biết là như vậy, nhưng cái điều sẽ đến ấy đồng nghĩa với một thứ gì đó hết sức mơ hồ nhưng rất quý giá sẽ biến mất trên cõi đời này.

Lần đầu tiên tôi gặp ÔNG SỸ cũng là ngày mà Doãn Gia tổ chức “sự kiện” mừng ông “về nhà” sau nhiều năm “học tập”.

Trước đây, tôi không hề quen với gia đình này, chỉ biết chi tiết duy nhất rằng con của ông là Doãn Quốc Hưng, học cùng khóa với tôi suốt từ năm lớp 6 cho tới lớp 12 tại trường Pétrus Ký (sau đó đổi thành Lê Hồng Phong)

Tôi chưa hề có một cuộc gặp gỡ hay nói chuyện gì với Doãn Quốc Hưng trong suốt ngần ấy năm học do định kiến rằng “thằng này” vô cùng kiêu hãnh vì nó là con ÔNG SỸ.

Ác cảm trên không phải là vô căn cứ - ngoài chuyện “thằng Hưng” là con nhà văn nổi tiếng trước 75 và là nhân vật “có vấn đề” trong chế độ mới - việc mời Hưng tham gia các hoạt động văn nghệ trong trường, mà cụ thể là tham gia vào đội múa rối của tôi là điều “bất khả thi” mặc dù nhóm tôi rất cần một tay guitar nhậy bén như Hưng.

Định kiến kỳ cục trên bị xóa ngay lập tức khi tôi may mắn đến với gia đình này. “Thằng Hưng” lúc đó (và mãi về sau) không hề “chảnh chọe” như tôi nghĩ mà ngược lại, rất cởi mở và khả ái vô cùng!

Trong hồi ký của mình, tôi đã tả lại khá chi tiết về “sự kiện” độc đáo này, ở đây tôi chỉ xin tóm tắt vài ý chính.

Do tò mò về lớp dạy cắm hoa của một chị bạn - mà theo tôi là “bịp bợm” - vì trong những năm 80 đói kém ấy, không thể có được những hoạt động “xa xỉ” như thế cho nên tôi đã đi theo và quan sát chị ấy suốt một lộ trình từ quá trình cắt xén cỏ cây đến cách mà chị hướng dẫn học trò.

Nơi mà bạn tôi và đám học trò của chị trổ tài lại chính là nhà của ông Doãn Quốc Sỹ và tại đây mọi người đang tổ chức “sự kiện” mừng ngày ÔNG SỸ “về nhà” sau nhiều năm “học tập”.

Vào thời điểm ấy, tôi đang học khoa đạo diễn trường Nghệ Thuật Sân Khấu, đã từng đến thực tập tại các đoàn hát và gặp rất nhiều những nghệ sỹ nổi tiếng đương thời… vậy mà tôi dã “cứng đờ” khi được dự đêm văn nghệ “cây nhà lá vướn” của DOÃN GIA.

Không biết đêm ấy là “nguyệt rằm” hay “cúp điện”, ánh sáng chập choạng nhưng lung linh từ cây đèn dầu và các ngọn nến đã làm cho “buổi tiệc” tuy nghèo về thức ăn (chủ yếu là đâu phộng) nhưng lại giàu về nghệ thuật với những bình hoa tuyệt mỹ - hoàn toàn được cắt tỉa từ cây cỏ dại bên đường - cùng những tiết mục văn nghệ của các thành viên trong gia đình và thân hữu. Tuy là “nghiệp dư” nhưng các tiết mục này lại truyền cảm và xúc động vô song. Chưa bao giờ tôi được dự một đêm văn nghệ nào ngoạn mục và đậm đà chất Việt như đêm hôm ấy…

Nhiều năm sau - khi thân với cả gia đình - tôi luôn nhắc về cái đêm kỷ niệm ấy rằng:

-Dù quá mõi và tê nhưng em không dám duỗi thẳng chân ra bởi chương trình văn nghệ quá hay, sợ ảnh hưởng tới mấy người đang ngồi chật cứng bên cạnh… và hơn thế, ngay lúc đó, chợt thấy tia mắt khó đăm đăm của Doãn Quốc Vinh đang “lướt ngang” mọi người.

Tôi cũng không ngại ngùng khi nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng:

-Nếu không dự được đêm đó để có cơ hội làm quen và sau là thân thiết với DOÃN GIA thì em cũng sẽ nổi tiếng trong nghề nghiệp của mình, nhưng hình ảnh đó chắc chắn sẽ không giống như em hiện tại!

Nghĩ cũng thật lạ, giữa tôi và DOÃN GIA có một mối quan hệ không giống với bất cứ ai trên đời này. Tôi có thể “tự hào” khi nói rằng mình không chỉ “thân” với tất cả các anh chị em trong gia đình này mà còn thân cả dâu-rể cùng con cháu, lẫn bạn bè của họ.

Cám ơn toàn thể DOÃN GIA đã dành cho tôi sự ưu ái này!

Tôi có niềm đam mê đối với thơ ca từ những ngày còn niên thiếu và tôi vẫn giữ tình yêu đó đến tận hôm nay. Ngày trước, tôi hay chép các bài thơ tôi thích vào những cuốn sổ thật đẹp, bây giờ thì “làm biếng” hơn, chỉ ghi lại các câu thơ - chủ yếu của đại thi sĩ Bùi Giáng - thế nhưng thơ của ÔNG SỸ thì tôi không hề chép nhưng lại nhớ nằm lòng. Chúng làm tôi bị xáo động.

“Gương trong mình lại soi mình

Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du…”

Trở lại với ÔNG SỸ. Tuy “thân” gần như “tuyệt đối” với từng cá thể trong gia đình độc đáo này, thế nhưng tôi cũng thật thà thú nhận với các con ông ấy rằng mình chưa - nói đúng hơn - tôi không dám đọc văn của ông, bởi ngay từ nhỏ tôi đã có một định kiến rằng truyện của ông rất khó đọc, nó quá cao siêu và triết lý, chưa kể những tầng ẩn ý phức tạp mà một đứa hời hợt như tôi khoái loại truyện “gay cấn” mà không cần động não nhiều.

…Mãi đến vài năm gần đây, nhờ internet, tình cờ tôi đọc được một vài truyện ngắn của ÔNG SỸ. Tôi thực sự bàng hoàng vì tính “hiện đại” trong từng tác phẩm mặc dù những điều ông viết đã có từ hơn nửa thế kỷ trước.

Lấy “Con Thuyền Ma” như một thí dụ, truyện ngắn ấy không chỉ lôi cuốn và hấp dẫn tôi về mặt tình tiết và nhịp độ phát triển câu chuyện, mà nó còn “lạ lùng” trong cấu trúc và bố cục đến nỗi tôi tự đặt ra câu hỏi rằng liệu các nhà văn trẻ hiện thời, mấy ai có được những thủ pháp “cách tân” tương tự như ÔNG đã làm từ trên nửa thế kỷ trước? (ấy là chưa kể nhiều tầng ẩn dụ - mà theo tôi - với trình độ của độc giả “đương đại”, họ sẽ khám phá một cách sâu sắc hơn những gì mà ÔNG “gửi gấm” so gười đọc thời xưa.)

Kể lại sự kiện trên, tôi bỗng cảm thấy hổ thẹn và có lỗi trước ÔNG cũng như với những thành viên trong Doãn Gia đã luôn trân quý tôi. Xin mọi người hãy lượng thứ!

Nói chưa hề đọc một cuốn gì của ÔNG thì không hoàn toàn chính xác - sau năm 75 - lúc tôi khoảng 14,15 tuổi, tôi được anh bạn lớn hơn đưa cuốn sách mỏng, đó là VÀO THIỀN của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

Tôi đã đọc cuốn này một mạch - hoàn toàn trót lọt - bởi xem đây như những chuyện ngụ ngôn, cổ tích.

Cho tới ngày nay, tôi hoàn toàn không nhớ gì về VÀO THIỀN của ÔNG SỸ trừ một mẫu ngụ ngôn nhỏ. Câu chuyện được tóm tắc như sau:

“Một người bị té xuống vực sâu nhưng may mắn cho anh ta khi tay anh níu được một nhánh cây chìa ra. Trong lúc bị treo lơ lững, trước mắt anh hiện ra một chùm trái anh đào chín mọng. Anh nói: ĐẸP QUÁ!”

Vì THIỀN thì “không giải thích” (theo “Lời Nói Đầu” của cuốn sách ấy) - với lứa tuổi 14, 15 - tôi hiểu đại khái rằng lúc khó khăn nhất mình vẫn nên “lạc quan” bởi thái độ đó “tốt hơn” là những ý nghĩ tiêu cực.

…Nhiều năm sau - khi đã từng nếm trải khá nhiều hương vị cuộc đời - tôi nhớ tới CHÙM ANH ĐÀO ngày trước và tôi thay đổi suy nghĩ.

Tôi cho rằng người đàn ông rơi xuống vực kia dù sao vẫn còn may mắn vì trong phút giây cận kề cái chết đó, ông ta đã thấy được TRÁI ANH ĐÀO, trong khi nhiều người trong chúng ta đang rơi “thẳng đứng” trong hoạn nạn và tuyệt vọng đã không thấy bất cứ loại trái cây gì dù còn xanh hay đã chín…

…Nhưng khi “có tuổi” hơn (như bây giờ hiện tại), tôi ngẫm lại chuyện xưa và “cảm” theo một hướng khác.

Tôi may mắn hơn anh chàng lơ lững ngày xưa. Ông ta chỉ thấy TRÁI ANH ĐÀO trước mặt còn tôi - tôi luôn có CHÙM ANH ĐÀO trong tim.

Những kỷ niệm đẹp, những tình yêu mà tôi đã trải qua, những nơi chốn mà tôi đã lui tới, những thành công trong nghề nghiệp và cả những thất bại cùng nỗi niềm mà tôi từng trải… đó là từng TRÁI ANH ĐÀO riêng biệt nhưng đã kết thành CHÙM ANH ĐÀO chín mọng mà tôi có thể mang theo mọi lúc mọi nơi…

Mỗi lần tôi khoe một niềm vui hay một công việc nào đó với các thành viên trong DOÃN GIA, tôi đều nói:

-Đây cũng là một trong những TRÁI ANH ĐÀO mà nhờ ÔNG SỸ, tôi thấy được…


Đoàn Khoa

15/10/2025 

TIỄN ÔNG - Cỏ May


 

BÁC DOÃN QUỐC SỸ - Đức Quân


Người Việt mình có một cách giới thiệu bạn bè nghe vừa vui vừa dễ thương , nhất là khi người bạn đó thuộc một gia đình có người nổi tiếng. Thay vì nói về chính người bạn, người ta lại thích giới thiệu : “Bạn tui đó, ba nó là ông…” hay “bà…” gì đó. Có khi còn kể thêm: “bác nó là… chú nó là…” cho đủ họ hàng, đủ mối dây thân quen.

Cô bạn Thanh Hương của tui, nếu bạn ta đi cùng nhóm gặp người quen mới, thì sẽ được giới thiệu: “ Đây là Hương , con gái út của nhà văn Doãn Quốc Sỹ .” Và thế là, câu chuyện bắt đầu xoay quanh bác Sỹ — những kỷ niệm, những tác phẩm năm nào… Còn cô bạn Thanh Hương của tui thì dần dần “bị biến mất” khỏi cuộc trò chuyện lúc nào không hay.

Tui nhớ thằng bạn Thái trong nhóm , khi còn ở Paris, có kể lại là lần đó bạn Hương sang thăm, Thái đưa Hương đi dạo thành phố, rồi ghé vào quận 13, vào nhà sách Nam Á. Vào trước năm 2000, sách Việt Nam vẫn còn bán chạy vì người đọc còn đông đảo. Thái trò chuyện với bà chủ tiệm, rồi giới thiệu Thanh Hương là ai, (như tui nói trên là Thái nó không giới thiệu về bạn tui mà giới thiệu đây là con gái nhà văn Doãn Quốc Sỹ) Bà chủ nghe xong liền nói:

“Bố của em để lại cho văn học và hậu thế Việt Nam bộ trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau là quá đủ rồi.”

Tui chợt nghĩ, có lẽ đó là một trong những lời khen giản dị nhưng sâu sắc nhất mà một người yêu văn chương có thể dành cho một nhà văn.

Vào thập niên 80 và 90 ở Anh quốc, số người đọc sách Việt rất đông. Những thư viện địa phương, nơi có nhiều người Việt định cư, đều mua sách tiếng Việt cho mượn , mà đa phần là của các tác giả miền Nam trước 1975 và sáng tác mới tại hải ngoại, như ở Mỹ hay Pháp. Thời gian đó tui còn là sinh viên, mỗi khi hè về, không có việc gì làm, tôi lại ra thư viện đọc sách Việt Nam.

Khoảng năm 1987, tui thấy một quyển sách mang tựa “Đi”, tác giả Hồ Khanh, do nhà xuất bản Lá Bối ở Paris in. Lúc đó, các nhà in bên Mỹ như Đại Nam rất là cẩu thả trong việc đóng gáy, họ dùng keo dán sơ sài, đọc lâu là từng trang “ra đi có trật tự ” theo đúng nghĩa. Một quyển 300 trang có khi chỉ còn lại 50. Ngược lại, nhà Lá Bối in ấn rất kỹ, bìa và ruột sách dính như keo sơn — thảy qua thảy lại vẫn còn nguyên vẹn.

Tui thấy tên tác giả lạ hoắc, lại do Lá Bối in, nên nghĩ chắc là sách liên quan Phật pháp. Quyển sách nhỏ, chừng 200 trang, không có lời giới thiệu, vào ngay câu chuyện. Tui đọc từng trang, từng chữ , văn phong giản dị mà cuốn hút, từ những chuyến vượt biên đến chuyện thăm nuôi. Đoạn tui nhớ nhất là có một nhân vật bay lên đá tên lưu manh, mà không biết đó là ai. Mãi sau năm 2000, tôi mới biết người “uýnh lộn trên xe lửa” , và rằng tác giả Hồ Khanh, hay Hành Khô, chính là nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

Từ năm 2000 trở đi, người đọc sách tiếng Việt tại Anh ngày càng ít, các thư viện bắt đầu thải dần những quyển sách Việt, để ra ngoài bán với giá thật bèo . Tui chọn mua lại những quyển của các tác giả mình yêu quý, dù không có thời gian đọc hết, nên cứ để trong gara. Mãi đến những năm gần đây, khi dọn dẹp, tui mới thấy lại quyển “Người vái tứ phương”. Tui mở ra đọc thử, đọc một trang, rồi hai trang và cứ tiếp tục đọc, quên cả việc quét dọn vì bị cuốn vào cuộc tranh luận bói toán giữa nhân vật chính và người cán bộ cộng sản. Khi đọc xong, tui phải hỏi cô con gái út là bác Sỹ có biết xem tử vi không?

Được đọc nhiều tác phẩm của bác Doãn Quốc Sỹ là một may mắn vì được học hỏi nhiều điều. Nhưng tui chỉ có một dịp duy nhất gặp bác là vào mùa hè năm 2015 tại Hoa Kỳ . Tui đã nghĩ mình là lúc đó sẽ hỏi bác thật nhiều điều, nhưng rồi lại chẳng hỏi gì hết . Tui ngồi ngoài vườn, bác cũng ngồi và cần mẫn cắt những cây dại, bỏ vào thau rác. Tui chỉ hỏi có bác hai câu:

“Bác làm gì đó?”

Bác trả lời “Cắt mấy cây dại cho vườn sạch sẽ.”

Tui hỏi tiếp “Bác làm vậy có mệt không?”

Bác cười: “Làm cho hết thời gian thôi.”

Tui ngồi im, nhìn bác cắt cỏ dại suốt hơn 30 phút. Nghĩ mà lạ, mình đang ngồi trước một nhân vật lịch sử vậy không mà không hỏi chuyện gì hết , mà không hề hay rằng đó là lần gặp duy nhất với bác. Tui chụp vài tấm hình bác, nhưng chẳng tấm nào bác được xem qua.

Khi đăng hai tấm ảnh ấy lên Facebook, bạn bè để lại vài dòng bình luận nay xin trích lại

Lucia Phạm (bạn học Petrus Ký – nay ở Boston):

“Thích chiếc nhẫn cưới vàng 18 trên tay trái của Bác… một biểu hiện nghiêm cẩn và chuẩn mực cho thế hệ trẻ về lời hứa hẹn trăm năm với hôn nhân.”

Liên Doan (con gái bác Doãn Quốc Sỹ) trả lời:

“Ha haaa… cái nhẫn này là cái thứ hai, con cháu mua tặng ông bà năm nào đó khi về chơi Việt Nam! Ông đeo từ đó đến giờ, nói lên: một là ông chẳng để ý, hai là ông ngoan ngoãn với lũ con!”

Rồi chị nói thêm:

“Cả hai đều chứng tỏ tâm của ông rất an.”

Lucia Phạm lại nói:

“Liên Doan chứng tỏ tâm của Ông chỉ có Thê và Tử mà thôi…”

Lê Hải Nguyễn (bạn học Petrus Ký, nay ở Việt Nam) nói :

“Ôi, thời oanh liệt nay còn đâu! Thật khâm phục khi bác đã trải qua bao năm tháng bị bầm dập, vậy mà vẫn kiên cường sống đến hơn 90. Chắc nhờ cuối đời bác ‘phản bội nước XHCNVN’ đó. Chúc bác sống khỏe mạnh.”

Thời gian cứ trôi. Mỗi lần Hương gọi sang, lại nói:

“Nói nhanh nha, phải đưa Bố Sỹ đi bộ công viên,”

hoặc

“Bận thay đồ cho Bố Sỹ để đưa ra ngoài.”

Còn tui, mỗi khi có chuyện gì vui trên thế giới là lại nhắn cho Hương:

Năm 2023, tui nhắn tin “Công ty phim Disney 100 tuổi rồi đó, bằng tuổi với bác Sỹ! Mà chú chuột Mickey và vịt Donald còn kém bác mấy tuổi đó nha.”

Mỗi mùa World Cup hay Euro, tui lại dặn Hương:

“Nhớ bật tivi cho bác xem đá banh nha , để thấy cụ cao niên nhất Việt Nam vẫn còn yêu bóng đá. Bác chào đời trước cả World Cup 7 năm, bình thường một đời người xem được 20 lần giải World Cup là quá may mắn thế mà bác đã sống được 25 mùa giải túc cầu quốc tế rồi đó. Tui cứ nói với bạn Hương mong sao bác còn khỏe đến năm 2030 để đón World Cup 100 tuổi.”

Mấy ngày qua trên mạng xã hội ở hải ngoại và Facebook là rất nhiều người gởi lời chia buồn đến gia đình bác Sỹ , rất nhiều bài viết nói về bác , chẳng những thế có cả phỏng vấn trên Youtube và truyền thông hải ngoại nói về nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Chẳng những vậy ngay cá nhân tui, chỉ là người bạn mà cũng nhận tin nhắn là bác Sỹ đã qua đời và nhờ tui đi chia buồn với gia đình bác Sỹ.

Với tui Bác Doãn Quốc Sỹ để lại một di sản văn chương cho Việt Nam, bác không chỉ là một nhà văn lớn, mà còn là một biểu tượng của nhân cách, của sự điềm tĩnh, của “tâm an giữa bão đời”.

- Trần Đức Quân 

 

DOÃN QUỐC SỸ: NHÀ VĂN THẦN THOẠI - Nguyên Giác Phan Tấn Hải

Từ thời say mê đọc sách trong các năm trung học, tôi đã nhìn thấy chung quanh mình như là mộtcõi phân đôi: thế giới thần thoại và thế giới đời thường. Cái nhìn đó vẫn theo tôi không rời, và tôi tin thật rằng các nhân vật trong truyện về các nàng Mị Nương, truyện Bích Câu Kỳ Ngộ của Việt Nam vẫn đang đi lại bên các vị thần của cổ tích Hy Lạp bên ngoài hiên nhà của tôi. Hễ tôi hé cửa nhìn ra là họ biến mất, nhưng khi khép cửa lại, tôi nghe được tiếng họ thì thầm như thúc giục tôi mở ra các trang sách để đọc về những cõi rất là thơ mộng.

Nhiều năm về sau, khi đọc nhiều hơn, tôi mới nhận ra rằng các trang sách của các nhà văn như Doãn Quốc Sỹ, Charles Perrault, Hans Christian Andersen, và Leo Tolstoy là những cánh cửa để tôi nhìn vào thế giới thần thoại, nơi rất nhiều nhân vật của họ là hiện thân của thơ mộng, yêu thương, và bất bạo động.

Các nhân vật của họ như dường không có thật. Nhưng khi nhà văn Doãn Quốc Sỹ, với nụ cười thơ mộng không bao giờ tắt, bước vào tòa soạn Việt Báo, thế giới đời thường của cực nhọc, của suy tính, của các bài bình luận nhức đầu về kinh tế, chính trị, xã hội đều tan biến trước mắt tôi. Thế giới thần thoại hiện ra, bay lơ lửng quanh tôi, theo chân nhà văn họ Doãn, bất kể rằng ông đã vào tuổi lãng đãng. Mà nói cho cùng, có nhà văn, nhà thơ chân thực nào mà không lãng đãng, không cách này thì cách kia.

Thường thì tôi lúng túng khi nói chuyện, vì luôn luôn có người theo nhà đi nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Tôi không giữ được cách xưng hô cho thống nhất. Tôi lại thân với bạn Doãn Quốc Hưng, người con trai thường dẫn nhà văn họ Doãn đi nơi này, nơi kia. Tôi hiếm khi nói trực tiếp với nhà văn họ Doãn, vì không biết nói gì với nụ cười rất mực Niết Bàn của cụ. Khi nói chuyện với mọi người, có khi tôi gọi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là cụ Sỹ hay là bác Sỹ (khi nhớ rằng mình là bạn của Hưng), có khi gọi là anh Sỹ (khi nhớ rằng nhà thơ Trần Dạ Từ ở tù chung với nhà văn Doãn Quốc Sỹ nhiều năm), và gọi trang trọng là nhà văn khi ngồi viết tin. Và tôi nhận ra, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là người của thần thoại, và là người viết cho nền văn học thần thoại. Chắc chắn, nhiều người cũng sẽ mơ hồ nhìn thấy như thế. Mỗi dân tộc sẽ có một người độc đáo như thế.

Trường hợp nước Pháp là nhà văn Charles Perrault (1628–1703), không chỉ kể chuyện cổ tích cho trẻ em, mà còn gieo vào lòng người lớn những hạt giống yêu thương, đức hạnh. Trong các tác phẩm như Cô bé Lọ Lem hay Người đẹp ngủ trong rừng, nhà văn đã thần thoại hóa thế giới đời thường. Perrault không ca ngợi chiến thắng bằng sức mạnh, mà bằng lòng kiên nhẫn và tình yêu thương.

Trường hợp Đan Mạch là nhà văn Hans Christian Andersen (1805–1875), nơi nhân vật nào cũng ngây thơ và trong sáng. Ông viết cho những người bé nhỏ trong xã hội—cô bé bán diêm, chú lính chì, con thiên nga trên hồ —những nhân vật chịu đau khổ nhưng không đánh mất lòng yêu thương. Truyện của Andersen thần thoại hóa thế giới chung quanh, biến chiếc que diêm, hay giọt nước mắt thành biểu tượng tình thương. Văn chương của ông là ánh sáng dịu dàng soi rọi vào cuộc đời, để chúng ta học cách yêu thương nhau hơn.

Trường hợp nước Nga là nhà văn Leo Tolstoy (1828–1910). Tolstoy không chỉ là tiểu thuyết gia vĩ đại, mà còn là nhà hiền triết của lòng từ bi và bất bạo động. Trong những truyện ngắn đạo đức như Ba câu hỏi (The Three Questions), hay tuyển tập truyện trẻ em ;The Lion and the Puppy: And Other Stories for Children", ông dùng ngôn ngữ giản dị để truyền tải thông điệp sâu sắc về sự yêu thương, tha thứ và sống vì người khác. Tolstoy tin rằng sự trong sáng của tâm hồn là con đường duy nhất để nhân loại vượt qua khổ đau. Ông phản đối chiến tranh, lên án bạo lực. Tolstoy viết không phải để giải trí, mà để thức tỉnh trái tim con người.

Trường hợp Việt Nam là nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), người sống giữa rất nhiều môi trường bạo lực, từ chiến tranh cho tới nhà tù, nhưng ngòi bút vẫn hướng về một thế giới thần thoại trong đời thường, nơi các nhân vật là hiện thân rất mực trong sáng của tình yêu thương, lòng từ bi, sự hy sinh. Truyện của Doãn Quốc Sỹ phần lớn mang màu sắc u buồn nhưng thơ mộng, viết về đời thường mà y hệt truyện cổ tích. Và thực sự là họ Doãn đã kể chuyện thần thoại với tuyển tập “Thần Thoại: Nhật Bản - Đại Dương Châu - Hy Lạp - Bắc Âu” (NXB Sáng Tạo), nơi độc giả sẽ đi lạc vào thế giới hầu như ai cũng đi đứng nói cười với tâm trong sáng.

Có một yếu tố nữa. Khi vào đại học, tôi học ở Văn Khoa, không có cơ duyên học Vạn Hạnh. Không phải kỳ thị, mà chỉ vì nghe lời rủ của người bạn thân là nhà thơ Phan Nhật Tân. Nhìn lại, các vị thầy ở Đại Học Văn Khoa mà tôi học, như GS Nguyễn Văn Trung, GS Lê Tôn Nghiêm, GS Lê Xuân Khoa cho tôi đủ thứ lý luận phức tạp, bàn đủ thứ chuyện nhức đầu về chủ nghĩa hiện sinh của Jean-Paul Sartre hay Albert Camus... Đủ thứ “nghiêm và buồn.” Tôi không được học nhà văn Doãn Quốc Sỹ ở Văn Khoa, cho dù tôi còn nhớ là nơi nữ sinh viên nào cũng rất đẹp, và là nơi nam sinh viên nào cũng ưa nói về hiện tượng luận và lắm chuyện bí hiểm.

Trong khi đó, Đại Học Vạn Hạnh là một cõi rất thần thoại, rất thơ mộng, nơi của một cõi trời cao hơn các tầng mây của Thầy Minh Châu, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ni sư Trí Hải... nơi của thơ và thơ. Vạn Hạnh cũng là nơi của công án, nơi tôi vẫn mơ hồ nghĩ rằng, mình bước vào thăm ngôi trường đó, nói lạc một chút là sẽ bị một thiền sư nào đó đánh cho 30 gậy liền (thực tế, tôi chưa đọc bản tin nào kể chuyện tương tự như thế, chỉ là lúc đó tôi tưởng như các trang sách Lâm Tế Ngữ Lục là một cõi rất thực trong sân trường này). Nhà văn Doãn Quốc Sỹ lúc đó cũng là một nhân vật trong cõi thần thoại Vạn Hạnh, đầy sương khói. Họ là thế giới rất là xa với tôi.

Chỉ tới nhiều thập niên sau, vào nghề báo ở hải ngoại, tôi mới thấy gần với tất cả các thế giới thần thoại trong cõi này, nơi đó có nhiều cơ duyên để tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, và nhiều vị khác. Thế rồi tôi đã gặp, đã nói chuyện, đã phỏng vấn, hay đã thân cận với rất nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có Phạm Duy, Mai Thảo, Kiều Chinh, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Công Thiện, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Quang, Hoàng Quốc Bảo và nhiều vị khác nữa. Tôi cầm máy ảnh chạy theo họ và tôi viết tin về thế giới thần thoại của thiên đường văn học lưu vong này. Trong đó, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một vị thần nổi bật: cụ lãng đãng như sương khói, khuôn mặt cụ ngây thơ như con nai ven rừng, và nụ cười của cụ làm tịch lặng tất cả mọi trầm tư của người đối diện.

Sau này đọc nhiều hơn, tôi nhận ra, nhiều nhà văn khác cũng nhìn về Doãn Quốc Sỹ như một nhân vật của cõi chư thần. Như trong tác phẩm Trái Cây Đau Khổ, một truyện-kịch của Doãn Quốc Sỹ ấn hành năm 1963, Lời mở đầu của Thanh Tâm Tuyền ghi rằng, trích: “...nhân vật của Doãn Quốc Sỹ là con người nắm chặt được hạnh phúc, bất chấp giao động tráo trở của Định Mệnh. Một nhà văn của cổ tích phương Đông! Bản chất không chấp nhận sự tàn nhẫn, anh viết kịch với những nhân vật hạnh phúc của anh. Và kịch trở thành thơ, một cuộc đối thoại triền miên, không dứt ngụp lặn trong thế giới của Thực và Mộng, quái gở và hồn hậu.

Những cái thực được coi là Mộng và Mộng hóa thành Thực. Kịch rốt cuộc chỉ là cổ tích và thần thoại. Khi Doãn Quốc Sỹ dùng cặp mắt trong suốt và thơ ngây của mình để biến cõi Thực – anh đang phải sống, anh không chấp nhận và coi tính chất bi đát của nó chỉ là phù du trong sự vận chuyển vô cùng khoáng đạt của Vũ Trụ - thành những biểu tượng, vô tình anh đã vĩnh viễn hóa nó trong nỗi bi đát không cùng...” (ngưng trích)

Đó, nhân vật của Doãn Quốc Sỹ thơ mộng như thế đấy, chỉ là cổ tích và thần thoại. Thực tế, ngoài đời thường, cụ Doãn Quốc Sỹ cũng thần thoại và cổ tích y hệt. Hãy nghe lời kể của nhà thơ Đỗ Quý Toàn (bình luận gia Ngô Nhân Dụng) trong bài viết nhan đề “Doãn Quốc Sỹ - Thế Đấy!” trích như sau:

“Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại sao? Ông cười khà khà: ‘Mất xe rồi! Ai nó lấy mất rồi!’

Cái xe “nội hóa” La Dalat ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cả một tài sản, và phương tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai kể một chuyện hài hước!

Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như núi đá.” (ngưng trích)

Thế là cụ an nhiên y hệt trên mây rồi. Nhân vật trong truyện của cụ Doãn Quốc Sỹ là cổ tích thì dễ hiểu, nhưng trong khuôn viên đại học và trong lao tù mà vẫn sống được như chuyện cổ tích thì quả là hy hữu. Một bài viết nhan đề "Dọn Dẹp Tạp Niệm" của Doãn Tư Liên, con gái cụ Doãn Quốc Sỹ, có đoạn đối thoại với cụ, trích như sau:

Có lần con gái hỏi Cụ: - Bố, giữa khuya bố còn ngồi thiền như thuở trong tù không? 

- Không con. Lúc nào bố chẳng hành thiền. Đâu cần phải ngồi đâu!

- À, thì ra thế.

Thôi thì cụ già 100 tuổi mà vẫn đi đứng, nằm ngồi mà không cần người trợ giúp (ngưng trích)

Trong tác phẩm “Vào Thiền” của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, tôi đặc biệt là nhớ tới hình ảnh dòng sông và que diêm, do cụ Doãn viết về đời người, xin trích:

“Dòng đời như dòng sông, không một sát na nào ngừng trôi chảy. Nô lệ cho lý trí đơn thuần ham cắt xén thì chỉ thấy được cái ngưng đọng, cái chết. Những khái niệm con đẻ của lý trí chật hẹp và khô cứng kia làm sao chụp được dòng thực tại không ngừng triền miên trong thế tương sinh tương lập - đối tượng của thiền! Mỗi chúng ta là một que diêm sống! Không ai sống hộ ta, ta phải tự sống lấy, tự chiêm nghiệm lấy Thiền. Que diêm khi tắt đi, chút khói xanh để lại. Rồi chính chút khói xanh đó cũng tan loãng nốt và biến hẳn-như vết chân cát xóa! [...] 

Nói đến Thiền là nói đến không tâm. Nhưng đừng quên phần đi song hành với không tâm là diệu hữu. Bởi vì nếu chỉ đơn thuần có không tâm thôi, thì đó là ngoan không cái không trống rỗng, không có gì!”

(ngưng trích)

Và nơi đây, xin chép lại hai câu đối của Phan Tấn Hải thành kính viết mừng cụ Doãn Quốc Sỹ tròn 95 tuổi vào năm 2018:

Mang gươm giới định huệ, đi tới cùng trời cuối đất

Phá trận tham sân si, viết để Giữ Ngọc Gìn Vàng...

Độc giả có thể tìm đọc thêm ở trang https://www.doanquocsy.com/ nơi đang lưu giữ nhiều bài viết, tác phẩm, hình ảnh của nhà văn Doãn Quốc Sỹ và nhiều nhận định từ nhiều nhà văn khác. Và đó cũng là nơi bạn sẽ bước vào thế giới thần thoại của một nhà văn rất độc đáo.

Nguyên Giác Phan Tấn Hải

DOÃN QUỐC SỸ, MỘT TÂM HỒN THẤM ĐẪM TINH THẦN DÂN TỘC - Bùi Văn Phú

Sống qua hơn một thế kỷ, nhà giáo, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử nước Việt đầy thăng trầm.

Khi tôi học lớp 10 và 11 ở trường Nguyễn Bá Tòng thì biết đến giáo sư Doãn Quốc Sỹ qua những tập sách khảo luận của ông về Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát mà tôi cần đọc thêm để làm bài trong giờ Việt văn với các thầy Thái Văn Khôi, Trần Bằng Phong và cũng để ôn bài cho kỳ thi Tú tài I.

Những năm sau đó tôi mới đọc Gìn vàng giữ ngọc, xuất bản năm 1960, và Sầu mây năm 1970, cùng vài tác phẩm khác nữa của Doãn Quốc Sỹ, một trí thức Hà Nội di cư vào sống trong Nam từ năm 1954, cùng với Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn và một số văn nghệ sĩ miền Bắc khác.

Gìn vàng giữ ngọc gồm 6 truyện ngắn: Khu vườn bên cửa sổ, Căn nhà hoang, Tiền kiếp, Cái chết của một người, Hương nhân loại, Chiếc chiếu hoa cạp diều, Gìn vàng giữ ngọc. Qua những câu chuyện thời kháng chiến, chuyện tản cư của gia đình tác giả, dù trong hoàn cảnh nào thì tình thương yêu, tính nhân bản của nhân vật cũng được đề cao, dù có đói ăn, thiếu mặc hay đang sống trong hoàn cảnh giặc giã, chiến tranh.

Những điều về con người cộng sản trong phong trào Việt Minh, ông ghi lại trong chuyện Gìn vàng giữ ngọc, qua câu nói của một người thân trong gia đình: "Em nên nhớ anh Sơn bỏ ngoài kia vào đây cũng để tránh những thái độ soi mói vào đời tư một cách bất lịch sự, vô chính trị và vô… giáo dục như vậy. Đó là nguyên do khiến tác giả bỏ chiến khu về thành, sau năm năm theo kháng chiến chống Pháp từ 1946 đến 1951.

Truyện Khu vườn bên cửa sổ là cuộc tình lãng mạn của một chàng bác sĩ quân y với Linh, mà chàng sau này lại trở thành người yêu của Huyên. Linh và Huyên đều là sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn, Linh học ban Anh văn, từng tu nghiệp Mỹ, có người yêu là sinh viên Việt đang học đại học Mỹ danh tiếng Cal Tech. Tính tình Linh cởi mở, hoạt bát tự nhiên, còn Huyên thì khép kín. Câu chuyện ghi lại nhiều biến cố lịch sử từ ngày gia đình các nhân vật ở Hà Nội, Thanh Hóa, Vĩnh Yên hay đã vào Tây Ninh, Sài Gòn.

Từ chuyện tình của Linh, xuất bản lần đầu vào năm 1960, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã ít nhiều giới thiệu nước Mỹ cho độc giả miền Nam, dù khi đó ông chưa đặt chân đến Hoa Kỳ. Vì sự can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến, nên ông đã đưa văn hóa Mỹ và Việt vào trong nhiều tác phẩm. Dấu chân cát xóa ông viết trước ngày 30/4/1975 nhưng chưa kịp xuất bản, cho đến khi được in ở Hoa Kỳ sau đó. Trong tác phẩm này là câu chuyện của Chương, một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã giải ngũ, được du học Mỹ với học bổng USAID. Qua Chương, nhiều nét văn hóa Việt-Mỹ đã giao thoa, như những bài dân ca: Đèn cù, Lý con sáo, Se chỉ luồn kim nghe được ở nhà một giáo sư đại học người Mỹ; như phong cảnh, tập tục của người Mỹ trải dài từ West Virginia, New York, Illinois sang California; đến nền móng của Kitô giáo, triết lý của đạo Phật. Trong tác phẩm này còn có chuyện tình giữa chàng trai Việt, cựu Trung úy Biệt động quân tên Lĩnh và cô gái Mỹ tên Horthy, chọn tên Việt là Hoa. Ở đây nhà văn muốn cho độc giả thấy khi nhắc đến Việt Nam thì chiến tranh không phải là trọng điểm mà ở đó còn có một nền văn hóa truyền thống lâu đời với nhiều nét đẹp.

Giáo sư Doãn Quốc Sỹ đã qua Mỹ tu nghiệp sư phạm hai năm, 1966-68, về nước ông viết Sầu mây kể lại những ngày ở Mỹ ông đã giới thiệu văn hóa Việt cho người Mỹ mũi cao, tóc vàng, mắt xanh.

Có lẽ vì thế Hà Nội đã xem ông là  biệt kích văn hóa\ và đã bắt giam ông hai lần, từ năm 1976 đến 1980 và lần thứ hai từ 1984 đến 1991. Sự việc ông bị bắt lần thứ hai liên qua đến tác phẩm Đi ông gửi ra nước ngoài, xuất bản lần đầu ở Pháp vào thập niên 1980, dưới bút danh Hồ Khanh.

Khi vận động trả tự do cho ông và các văn nghệ sĩ bị Hà Nội giam tù, tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế đã ghi trong bản tường trình về trường hợp giam giữ nhà văn Doãn Quốc Sỹ khi ông bị báo chí nhà nước lên án là  cán bộ chiến tranh tâm lý của Mỹ văn chương phản cách mạng bóp méo sự thật lịch sử của kháng chiến là  kẻ lợi dụng thời cơ.

Tháng 5/1984, ông bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ như Hoàng Hải Thủy, Khuất Duy Trác, Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường mà không bị đem ra xét xử trong nhiều năm.

Trước sự vận động của các tổ chức nhân quyền và áp lực của thế giới, tháng 4/1988, Hà Nội mớiđem ông ra xử cùng với Hoàng Hải Thủy, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tú, Nguyễn Thị Phước Lý và nhân viên bưu điện Nguyễn Thị Nhàn, bị cáo buộc đồng lõa đã giúp chuyển tác phẩm Đi của ông sang Pháp.

Ông bị kết án hơn 10 năm tù, được thả vào tháng 11/1991 và đến Mỹ đoàn tụ cùng gia đình năm 1995. Tác phẩm Đi gồm 19 chương, ông viết ở trong nước, ghi lại sinh hoạt đời sống của gia đình ông, của nhiều người Việt với hai lần di cư vào năm 1954 và cuộc di tản tháng 4/1975 và sau đó là làn sóng vượt biển. Ông viết về những khó khăn trong đời sống dưới chính quyền cộng sản qua chuyện lý lịch, chuyện dạy học và chuyện vượt biển của hàng trăm ngàn người Việt.

Văn chương của ông nhẹ nhàng, dù phác họa lên những đắng cay, đau khổ, ngang trái của đời ông, trong cuộc sống của người Việt, nhưng luôn ẩn chứa niềm tin vào tiền thân lịch sử của dân tộc. Qua nhân vật hay những câu viết trong truyện ngắn Tiền kiếp cho thấy ông không ưa cộng sản vì gieo bi quan, nghi ngờ trong giới trí thức" nên Tân, một nhân vật biểu tượng của con người ông, đã bỏ kháng chiến năm 1951 để về thành. Ông không thích nếp sống xa hoa của những người thực dân Pháp trên quê hương mình, qua hành động của Tân khi vứt bỏ những đồng năm hào, là biểu tượng của người Pháp đang đô hộ Việt Nam, xuống cống nước đen. Ở những chỗ khác trong tác phẩm, ông đã biểu lộ không ưa chủ thuyết tư bản, thể hiện trong chính sách của Mỹ, hay nếp sống hiện sinh được bàn tán nhiều ở Pháp trong những năm đầu thập niên 1960.

Qua tác phẩm, Doãn Quốc Sỹ đã thể hiện ông là một người Việt chân chính, với tinh thần dân tộc, yêu thương đất nước, tôn vinh những cái đẹp, những điều nhân bản trong cuộc sống, giá trị của tự do:  Chỉ những hiện thân của u tối, của thiển cận mới tưởng rằng nắm được quyền hành là nắm được lòng người. Dù có bị chế độ cộng sản giam tù, ông vẫn tin vào con người nhân bản: "Người đâu có nhất thiết tạo thành địa ngục cho nhau, nhất thiết là đao phủ của nhau.

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu.

Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.

Năm 1956, ông là người đồng sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, tạo ra diễn đàn sinh hoạt văn chương, xuất bản tác phẩm, tạp chí. Có thể nói ông là một trong những văn nghệ sĩ đã khai sinh ra nền văn học Việt Nam Cộng hòa với hàng chục nhà xuất bản đã phát hành cả ngàn tác phẩm văn học đủ thể loại trong 20 năm.

Cuộc đời của nhà văn Doãn Quốc Sỹ trải qua 102 năm, hơn một thế kỷ, nên ông đã là chứng nhân của lịch sử. Với 25 tác phẩm để lại cho đời(*), đáng chú ý nhất là bộ trường thiên tiểu thuyết Khu rừng lau gồm bốn quyển, với gần hai ngàn trang sách: Ba sinh hương lửa, Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, Tình yêu thánh hóa và Đàm thoại độc thoại, ghi lại những biến động của đất nước qua các cuộc chiến tranh chống Pháp từ đầu thập niên 1930 cho đến chiến tranh Việt Nam khi lên cao điểm vào thập niên 1960, với sự can dự mạnh mẽ của Hoa Kỳ.

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm đứt, với tác phẩm Đi viết về đời sống và hoàn cảnh của người Việt sau ngày 30/4/1975, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã để lại cho thế hệ mai sau một bộ trường thiên tiểu thuyết 5 quyển phản ánh con người và nước Việt qua một giai đoạn với nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng vẫn giữ được hồn dân tộc.

BÙI VĂN PHÚ

(dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California)


(*) Ghi chú của gia đình DQS: Thật ra, nhà văn DQS để lại hơn 40 tác phẩm (tiếng Việt và tiếng Anh) trong đó có hơn 35 tác phẩm xuất bản trước 1975 tại Miền Nam Việt Nam, và 5 tác phẩm xuất bản tại hải ngoại sau 1975. Sau đó, gia đình DQS đã tái bản 24 tác phẩm.

MỘT VÌ SAO SÁNG - Đỗ Dung

Tin bác Doãn Quốc Sỹ đã qua đời khoảng 10 giờ sáng ngày 14 tháng Mười khiến chúng tôi thật bàng hoàng dù biết rằng sớm muộn gì tin này cũng sẽ tới!  Một vì tinh tú sáng ngời trên nền trời Văn Học Việt Nam đã tắt. Bác đã ra đi!!! Thế rồi tiếng phone liên hồi, text chớp liên tiếp.  Chị em chúng tôi xao xác liên lạc để thông tin nhau.

Mới cách đây ba năm, mùa Xuân 2022 chúng tôi đã cùng nhau làm một audio book để chúc mừng Bác, khi ấy rất vui, ríu rít mừng BÁC TRÒN TRĂM TUỔI. Hôm nay giữa mùa thu, trời hơi se lạnh, lá vàng lác đác rơi, Bác đã bỏ chúng ta, bỏ cõi đời này.  Con bé em Út mếu máo “Từ nay về miền Nam Cali không gặp Bác nữa rồi... Em yêu quý và nhớ Bác Sỹ quá!” Dù chị em chúng tôi mỗi đứa một nơi, không ở bên nhau lúc này nhưng cũng  ngậm ngùi qua phone thương nhớ ông Bác đã đi xa.

Rồi qua Internet, qua mạng lưới toàn cầu ngập tràn tin về Bác. Những bài viết kể về tiểu sử, về những tác phẩm, về những ý tưởng bác muốn truyền lại cho con cháu, cho những thế hệ về sau. Những lời ca tụng trân quý của người đọc về phẩm cách cao quý, về lòng yêu nước, yêu thương dân tộc và những xót xa cho thân phận con người của

Bác... Nhiều lắm, nhiều lắm... Con người Bác thật vĩ đại và cao cả quá! Chúng tôi thật tự hào!

***

Kính Thưa Bác,

Với chúng con, được là hàng xóm nhà Bác ở Thành Thái mấy chục năm, từ khi còn nhỏ xíu đến lúc trưởng thành thì Bác như một Cây Cổ Thụ, một Cây Sồi Ngàn Năm, một Cây Tùng Vạn Tuế toả những năng lượng ấm áp cho những người gần bên.  Qua những trang sách của Bác với giọng văn bình dị, điềm tĩnh và đôn hậu, tuy không lên giọng dậy đời nhưng chúng con đã học được rất nhiều điều.  Khi được ngồi bên cạnh Bác, nghe giọng nói hiền hoà, nhìn khuôn mặt trầm tĩnh của Bác, chúng con như hấp thụ được năng lượng ấm áp ấy, khiến tâm hồn con thật thanh thản, nhẹ nhàng.  Khi con viết xong cuốn sách “Như Một Thoáng Mây Bay” trình lên Bác thì Bác đã đọc và viết cho Lời Tựa quý báu và thật hân hạnh cho con, ngày Ra Mắt Sách cũng như ngày được lãnh giải Danh Dự  Viết Về Nước Mỹ do Việt Báo tổ chức Bác đều đến tham dự.

Con rất hãnh diện và vô cùng cảm kích sự ân cần của Bác.

Bây giờ Bác đã ung dung rời bỏ cõi tạm này để đến nơi THẢNH THƠI – AN LẠC ĐỜI

ĐỜI. Với chúng con, hình ảnh Bác, những tác phẩm của Bác vẫn còn đây, Cây Tùng Vạn Tuế

vẫn còn đây, nguồn năng lượng ấm áp của Bác vẫn còn đây, VẪN MÃI TRONG TÂM

TƯỞNG CỦA CHÚNG CON.

*** 

Thanh, Khánh, Liên, Thái, Vinh, Hưng, Hiển, Hương thương yêu, chị Dung  và các em chị chia buồn với các em và toàn thể tang quyến về sự mất mát quá to lớn này!

Chúng con xin góp lời cầu nguyện Hương Linh Bác mau chóng AN VUI chốn NIẾT BÀN.

Chị em gia đình họ Đỗ chúng con xin kính bái!


ĐỖ DUNG