Feb 20, 2011

BỨC TRANH THỨ MƯỜI “Nhập triền thuỳ thủ ” (Thõng tay vào chợ) - Thích Phước Tịnh


Bản thơ nguyên âm chữ Hán

Lộ hung tiển túc nhập triền lai
Phù thổ đồ khôi tiếu mãn tai
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
Trực giáo khô mộc phóng hoa khai

“Lộ hung tiển túc nhập triền lai” nghĩa là ăn mặc xốc xếch, bày ngực bày hông, đi chân trần với thái độ thong dong, bước vào quán rượu. Chú mục đồng này đã từng tu tập rất lâu, đến lúc thành tựu trên con đường tu, không có oai nghi chi cả. Nhưng chú chưa dừng lại nơi đây.

“Phù thổ khôi tiếu mãn tai” nghĩa là bôi đất, trét tro. Hình ảnh đoan trang của chú mục đồng khi tu với thầy không còn nữa, thay bằng hình ảnh trần lao, ô uế, đầu tro, mặt đất. Tuy nhiên, chú có một nụ cười rất tươi (tiếu mãn tai). Chúng ta vì lo âu đè nặng từ sáng đến tối nên có khi chúng ta cười nhưng gượng gạo, hoặc có hậu ý phía sau nên không cười trọn vẹn.

“Bất dụng thần tiên chân bí quyết. Trực giáo khô mộc phóng hoa khai” nghĩa là lúc này, chú mục đồng không cần bí quyết thần thánh chi cả, nhưng vẫn có thể làm người khác “nở hoa”, tươi lại dù cho người ấy như cành cây khô, không còn sức sống.

Đối với các bậc giác ngộ, đã chứng được con đường Niết Bàn, các ngài không vận dụng kinh điển như chúng ta, cũng chẳng cần nói nhiều nhưng năng lượng của sự giác ngộ, yên bình, tĩnh tại, đến gần, chúng ta cảm nghiệm ngay. Đó là ý thứ nhất. Ý thứ hai là các ngài không cần vận dụng cổ thư của Đức Thế Tôn hay của Thánh kinh, mà đem tuệ giác nơi chính tâm thức của các ngài để diễn đạt. Những điều các ngài truyền đạt đặc biệt làm cho tâm thức của thính chúng, dù có đóng khung mấy lớp tường thành, cũng vỡ vụn mà thấm giáo lý giác ngộ - giống như cây khô cũng trổ bông.

Bản dịch của thầy Tuệ Sỹ:

Lưng trần, chân đất, chợ người,
Cát lầm bụi vẫn ta cười say xưa.
Thần tiên mấy biết cũng thừa,
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.

“Lưng trần, chân đất, chợ người. Cát lầm bụi vẫn ta cười say xưa” – cho dù cát bụi phủ đầy thân hình bên ngoài – đầu tro mặt đất, nhưng nụ cười bên trong tâm thức của bậc giác ngộ vẫn rất trong sáng do tâm rất thong dong vào phố thị.

“Thần tiên mấy biết cũng thừa. Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.” Không cần sử dụng bí quyết thần tiên chi cả, các bậc giác ngộ vận dụng ngôn ngữ của chính các ngài, với sức sống rất hùng tráng, giúp được cho những ai có duyên tiếp xúc với họ - dù đang chìm ngập trong nỗi buồn- mở được cánh cửa chánh Pháp, đi vào cửa Đạo, vượt thoát nỗi khổ trong một sát na. Chữ “thoắt” trong câu thơ thứ tư rất hay, có nghĩa “bừng nở”, “bất chợt”, không phải từ từ phát triển từ búp đến nụ rồi mới nở hoa, cũng giống những người có khả năng thâm đạt con đường Thiền, một khi mở con mắt, lập tức tỉnh ngủ.

Qua 10 bức tranh Chăn Trâu, chúng ta biết được một trong hai con đường đi vào để chúng ta nhận ra con người thật của mình. Con đường đầu là con đường dài, cực khổ miên man, đi ngang qua 10 bức tranh này. Có khi đi mất một đời, nhiều đời cho tiến trình Phàm phu chứng Phật quả. Theo truyền thống của kinh văn, sự thành đạt cuối cùng là thành đạt được giác ngộ, chứng được Phật quả, ngồi trên toà sen phóng hào quang. Thế nhưng trong bộ tranh, người ta không vẽ hình chú mục đồng ngồi trên toà sen hay phóng hào quang, rất ngược lại với những quan niệm thông thường. Chú nhỏ mục đồng đã từng tu tập trên núi cao, bây giờ lại đi vào phố chợ, phía trước xách bầu rượu, phía sau quảy con cá, chơi với bọn đầu trộm, đuôi cướp trong chốn giang hồ thay vì kết bạn với thầy tu hay thành lập đạo tràng.

Con đường thứ hai là con đường ngắn, dành cho những người có cơ duyên đặc biệt, bước vào luôn không gian giác ngộ, triệt chứng đứng được quả giác ngộ. Có những lúc chúng ta oằn oại trong nỗi khổ. Nếu trầm tư lại, chúng ta sẽ thấy có hai phần: “nỗi khổ” và “con người” không thể sống với nỗi khổ ấy. Con người thật của chúng ta là nhân chứng nhận diện được nổi khổ, không phải là nổi khổ. “Con người” và “nổi khổ” có khoảng cách rất rõ ràng. Nếu nhận ra điều này, người xưa gọi là “ngộ đạo”, chứng được quả giác ngộ.

Trích "Về Nguồn 7" - www.matthuongnhindoi.com

No comments: