Ngày Bố ra đi, những bài viết về Bố bùng nổ trên mạng. Thứ nữ của Bố (tôi), đọc nhanh qua từng bài viết, và lượm được hai điều nổi bật mà người ngoài nào cũng nhận xét và không ai chối từ: chữ nghĩa và đức độ của Bố.
Riêng tám đứa con ông ở nhà thì dường như coi nhẹ mọi thứ mà người ngoài cho là “lớn chuyện”. Đứa nào cũng nói về Bố, gọi Bố bằng một giọng tương đương với chữ B hoa trong văn viết. Tuy nhiên chẳng đứa nào phân tích xem Bố mình có gì đặc biệt hơn Bố (hay Ba) của tụi bạn mình. Có lẽ tại vì Bố có thói quen sống thực với con người và lý tưởng của mình mà không cần phân tích hay khen người này, chê người nọ. Sự đời tới đâu Bố lo tới đó. Hai đứa con gái đầu bắt đầu đi học lúc tiền bạc gia đình rủng rỉnh thì ông cho học trường Tây. Đến đứa thứ ba, Bố cảm thấy không kham nổi tiền học kiểu đó bèn lùa nó vào một trường Việt nơi cô ruột của nó dạy. Năm đứa còn lại đều đầu quân vào trường Sư Phạm Thực Hành, nơi các giáo sinh học trò Bố dạy thực tập rồi sau đó thi vào một trường trung học ngang sức học của từng đứa. Bố coi sự học là quan trọng nhưng không gây áp lực, đòi các con phải đứng nhất lớp. Bố biết đồng tiền cần thiết trong cuộc sống nhưng không chờ đợi các con phải giàu có. Về hai mặt này, các con đều nghe lời Bố, học hạng khá là vui rồi và chẳng có đứa nào giàu.
Thuở còn nhỏ, gia đình tôi chơi thân với gia đình ông chú cùng họ Doãn. Chú là giám đốc uy quyền trong một hãng sửa xe hơi, về nhà chú cũng uy quyền y như vậy. Các con của chú thấy chú về thì lấm lét, tìm cách lẩn tránh. Đứa nào cũng mong ba mình được như Bác (Bố Sỹ của các anh chị). Bố xuề xòa, khi ngồi vào bàn ăn chẳng đòi tí nề nếp nào. Nhiều khi Bố vào ngồi bàn thì các con đã bắt đầu ăn rồi. Món nào bị các con chê thì Bố gắp hào hứng nhất. Thuở ấy có vài thanh niên là các em của một người bạn của cô tôi hay đến chơi. Chúng tôi gọi các vị ấy là “chú”. Gia đình chúng tôi có lệ mời bất kỳ ai đến chơi vào giờ cơm cùng ăn. Mẹ tôi nói “thêm bát thêm đũa ấy mà.” Những lúc ấy Bố khai mạc bữa ăn bằng câu “Nhậu đi các chú!” Có một chú cứ cười hoài “Chẳng có tí rượu nào mà ông cứ giục “Nhậu đi!” Vậy mà hôm nay Bố ra đi, bao nhiêu người vẫn cứ ca tụng “chữ nghĩa” của ông. Đã thế, một trong những “chú” ấy đã trở thành anh rể lớn thân thương của chúng tôi.
Thuở nhỏ, ở bậc trung học và đại học, tôi đi đâu cũng được giới thiệu là “con gái ông Sỹ”. Những lúc ấy tôi ngượng lắm vì sợ mình “con nhà tông” mà chẳng giống lông, cũng chẳng giống cánh! Ngượng nhất là không ít lần người được giới thiệu ngơ ngác hỏi “Ông Sỹ là ai?” Lúc còn bé xíu thì quả là tôi không biết ông Sỹ là ai, chỉ biết chữ “Bố” quen thuộc và bây giờ già rồi vẫn nhớ những buổi sáng sớm được Bố ôm vào lòng và hỏi “Sáng nay con ăn gì? Ăn bánh sữa nhé?” Khoảng thời gian đó cũng là lúc Bố hay ôm các con nhỏ và “tán” mẹ một cách kín đáo bằng câu nói “Bố phược con, Bố phược mẹ”. Kín đáo vì phục phải nói trại thành phược và con được nhắc trước mẹ.
Lớn chút nữa, tôi quen thuộc với dáng cao nghễu nghện của Bố, tương phản với Mẹ thấp người. Trong các hình xưa lúc nào Mẹ cũng khép nép bên Bố. Tám con của Bố Mẹ phát triển thể chất theo hai hướng trái nghịch như vậy. Trưởng nữ và một thứ nam cao vượt các bạn cùng lớp. Hai thứ nữ (chị Ba và Út Gái) thì tụt dốc, ngắn đòn thảm hại. Bốn đứa còn lại làng nhàng bậc trung. Gia đình chúng tôi là một khu vườn nhiều hình dạng, lố nhố, vậy mà các con vẫn được Bố gọi là “8 bồ tát” của Bố. Khi các “bồ tát” ở tuổi chướng ngược thì Bố thiên vị mấy đứa con gái ra mặt và chỉ “trừng mắt” mấy thằng con trai. Hậu quả là có những lần Bố bị Mẹ “cáo buộc” mà không cãi được tội “không biết dạy con, lúc nào cũng đợi chúng tự giác”. Nhớ nhất là lần Bố quá giang thằng trưởng nam trên chiếc xe mobilette của nó. Về nhà, Bố nghiêm mặt nói “Bố ngồi sau mới thấy mày tóc dài quá!” Vài ngày sau, tôi thấy tóc nó vẫn dài và Mẹ vẫn làu bàu bài ca “không biết dạy con” vì rõ ràng là nó không “tự giác”.
Tuy nhiên không ai chối cãi điều Bố là người của gia đình. Bố mua thẻ hội viên cho cả nhà ở Cercle Sportif Saigonais (gọi nôm na là “Xẹc”) và thường xuyên chất toàn ban lau nhau lên chiếc Daihatsu để chúng nó vào bơi trong khi ông chơi tennis một mình trong phòng tennis đơn). Tám con tám thẻ, với Ông nữa là chín. Thỉnh thoảng có đứa em họ của chúng tôi ham vui xin đi theo, ông cho liền. Khi lái xe qua chỗ kiểm soát, ông hiên ngang trình chín thẻ cho mười hành khách. Đứa em họ lúc ấy kín đáo ngồi sụp xuống sàn xe. Sau khi đi “thoát”, con bé vui mừng khoái trá. Nó vào hồ bơi vẫy vùng với đôi giò đã bắt đầu dài thậm thượt, còn tôi thì quên không để ý xem ông Bố rất đàng hoàng của mình có áy náy vì một việc làm không đàng hoàng lắm hay không.
Ở nhà Bố nhiều “khuyết điểm” là thế đấy, nhưng ra đường Bố có vẻ phong độ hơn vì ăn mặc lúc nào cũng chỉnh tề và đặc biệt chịu khó dấp eau de cologne lên tóc. Các chị học trò của Bố đến nhà chơi kể rằng ở ngoài sân trường các chị hay lén đi đằng sau ông thầy để hít mùi nước hoa. Trong những năm hoạt động hăng say nhất với tay phấn tay bút, Bố giao thiệp rộng với giới nhà giáo và nhà văn. Mẹ ở nhà đóng vai người nội trợ đảm đang. Tôi đặc biệt nhớ một bác đồng nghiệp thân thiết của Bố mà chúng tôi gọi là Bác Côn, vốn là vợ của luật sư Trần Văn Tuyên, thuộc đẳng cấp có “máu mặt” ở Sài Gòn thời đó. Nhà của bác là một biệt thự nguy nga có vườn rộng nằm ngay trên đường Hồng Thập Tự. Bác Côn dáng người phương phi, nét đẹp đài các và quần áo lúc nào cũng lụa là. Thỉnh thoảng bác qua nhà bạn Sỹ chơi, một căn nhà tầm thường trong một hẻm của người lao động. Gặp vợ bạn (mẹ tôi) thì bác thẳng thắn góp ý “Chị bỏ ngay cái quần đen với cái áo lụp xụp này đi.” Câu đề nghị có lẽ hợp ý mẹ vì mẹ cũng gốc gác “con nhà”, chỉ vì hoàn cảnh đông con mà phải lam lũ. Thế là mẹ tự may cho mình một số đồ bộ mặc nhà. Tôi không quen thuộc lắm hình ảnh mới này của mẹ, nhưng được cái mẹ cương quyết “cách tân” và bây giờ nghĩ lại tôi phục cá tính mạnh mẽ của Mẹ. Nhưng tôi vẫn thắc mắc không biết Bố thích hình ảnh nào của mẹ hơn. Có lẽ Bố không quan tâm vì Bố biết rất rõ rằng giá trị của Mẹ nằm ở chỗ khác. Bố đã từng tuyên bố với bạn bè: “Đáng lẽ tôi phải ký tên bà xã vào tất cả những tác phẩm của mình vì nếu không có bà ấy lo việc nhà thì làm sao tôi có được sự nghiệp văn chương này!”
Bao nhiêu năm trời tôi lớn lên trong một gia đình có bố đôn hậu, mẹ đảm đang và một bầy chị em lao nhao khi ầm ĩ, khi vui vẻ. Tất cả cứ tưởng như hạnh phúc này là chuyện tự nhiên mà có. Cho đến một ngày nọ, là con ông Sỹ bỗng trở thành chuyện đáng nói. Lần ấy tôi quen qua thư từ một anh ở Mỹ, bây giờ là “Bồ Tèo Hưng” hơn 20 năm trời của tôi. Thuở đó máy computer chưa có dấu tiếng Việt. Tôi viết thư vẫn ký tên là “Doan Khanh”. Khi anh gửi tôi một món quà qua bưu điện, đề tên người nhận “Đoàn Khánh” thì ông đưa thư không cho nhận vì không đúng tên. Tôi phải ra phường xin được xác nhận là ở địa chỉ đó chỉ có người tên Doãn Thị Kim Khánh chứ không có Đoàn Khánh nào hết. Khi biết chuyện, anh Hưng ngạc nhiên hỏi “Ủa, em họ Doãn thì có họ với ông Doãn Quốc Sỹ không?” Tôi giở giọng bỡn cợt mà chị em tôi hay dùng trong hoàn cảnh này: “Có họ sơ sơ, gọi Bố xưng con.” Lúc ấy anh Hưng thiếu điều nhảy tưng tưng vì anh là độc giả của Ông đã lâu và vẫn thường nói nhờ đọc sách ông anh mới biết thế nào là thực chất Cộng Sản.
Nhưng lại có một thuở ở quê nhà, quen biết với ông Sỹ trở thành họa nhiều hơn vinh. Đó là những ngày sau 1975, khi tôi bắt buộc phải ngồi trong giảng đường trường Đại Học Sư Phạm, nghe từ trên bục “các chú” chửi các “bồi bút” miền Nam, trong đó tên Bố được nhắc hàng đầu. Bôi xấu các “bồi bút” thì “các chú” làm tương đối nhuyễn nhừ, nhưng bôi xấu Bố Sỹ thì họ sẽ phải loay hoay hơn. Tôi ngồi trong hội trường cố tình lắng nghe họ “kể tội” Ông thì được bảo rằng Ông Sỹ có tội biện minh cho một chế độ xấu xa bằng nếp sống đàng hoàng của mình. Thế đấy! Lúc ấy chưa có chiến dịch bố ráp các nhà văn nên Bố còn ở nhà. Tôi về kể lại lập luận ấy thì Bố thản nhiên xúi “Con cứ coi như mình đang xem một vở hài kịch.”
Thế rồi đến một ngày hài biến thành bi! Công an đến bắt Ông đi vào giờ ăn trưa. Khi ấy có một bạn văn nghệ - nhà thơ Thế Viên - tình cờ đến chơi được Ông mời ở lại ăn trưa. Thế là “các chú” tiện thể bắt cả hai: một con cá bự và một con nhạn là đà. Hàng xóm chứng kiến “Ông Giáo” bị Công An bắt đi với tội danh “phản quốc” và “âm mưu lật đổ chính quyền” mà nước mắt lưng tròng. Trong khi đó chúng tôi phải đối phó với kho tàng sách khổng lồ Bố để lại. Đa số đều là sách tặng có chữ ký của tác giả. Có những người bạn ham đọc sách, mỗi lần qua nhà tôi là say sưa lục tủ sách bày ngay ngoài phòng khách để mượn về đọc. Vậy mà sau khi Bố bị bắt đi, tôi soạn một số sách quý, định đem gửi tại nhà một bạn học thân nhất thì bị anh của bạn từ chối thẳng thừng. Anh xua những quyển sách như xua tà!
Lần đó Bố bị bắt đi biệt tích, không có một tin tức gì về cho gia đình. Ở nhà mẹ con hoang mang, không dám tưởng tượng gì hết. Đó chỉ là khởi điểm. Sau đó là những năm tháng tù đầy từ Chí Hòa ở Sài Gòn đến trại lao động ở đồi núi Pleiku, đến trại tù ở Long Khánh. Ngục tù tối đen chỉ làm ông thêm tỏa sáng. Theo nhà phê bình Nguyễn Quốc Bảo thì “người ta tưởng bắt được Doãn Quốc Sỹ, nào ngờ chỉ bắt được một thân xác, còn linh hồn ông thì đã ung dung tự tại từ lâu”. Vì Ông đã hóa giải nhà tù bằng tâm thiền.
Thực ra, lần ấy Bố không bị bắt một mình mà với “đồng bọn”; tất cả cùng chia sẻ danh hiệu khá lẫy lừng mà báo chí Cộng Sản đã “ưu ái” tặng: “những tên Biệt Kích Cầm Bút”. “Các chú” cuối cùng xoay xở đưa được toàn ban “Biệt Kích” ra cho Tòa Án Nhân Dân xử. Trong phiên tòa ấy, Bố được “cất nhắc” lên vị trí “lãnh đạo”, nhưng bác Hoàng Hải Thủy đã khẳng khái bác bỏ điều này vì “văn nghệ sĩ chúng tôi không hoạt động theo chỉ đạo của ai hết!” Lần ấy “hiệp sĩ” cứu Bố và “đồng bọn” là Hội Ân Xá Quốc Tế. Trước đó thầy Nhất Hạnh và cô Cao Ngọc Phượng đã đích thân sang Sydney, gặp trưởng nữ và Út trai của Bố để chỉ dẫn cách biểu tình bất bạo động. Thuở ấy người bên trong kẻ bên ngoài liên lạc nhau bằng điện thoại của Bưu Điện trung ương, và toàn dùng mật hiệu bí hiểm, đầy không khí Z 28! Mãi sau chúng tôi mới nhận được hình đoàn biểu tình ở Sydney ngồi bất bạo động trước Tòa Đại Sứ Việt Cộng, trong đó có hình con gái của anh chị Hai (cháu ngoại của Bố) ngồi với biểu ngữ “I want to hold my grandpa.” Biện pháp này hữu hiệu. Một ngày đẹp trời, chúng tôi nhận được thư của một ông chú đảng viên làm trong ngành Ngoại Giao (chú là chồng của cô em kế Bố, ở lại ngoài Bắc sau 1954). Chú báo tin vui “Bố các cháu sắp về” nhưng kèm lời dặn hóm hỉnh “Đừng leo lên mái nhà mà reo ầm ĩ!”
Không đứa cháu nào bảo đảm chuyện không “ầm ĩ”. Chúng tôi đã “ầm ĩ” từ những ngày đói ăn, đói tự do sau năm 75 và suốt thập niên 80. Thời thế đưa đẩy khiến chúng tôi có dịp “đầu quân” dưới trướng của một “tên” dân vận “ác ôn” tên Trần Đại Lộc mà cả bọn tôn vinh làm “Anh Hai”. Tám đứa con của “Biệt Kích” Sỹ còn lại sáu vì trưởng nữ và anh rể Cả cùng thằng Út Giai đã cao chạy xa bay trên một chiếc tàu vượt biên. Thực ra, nhóm này còn có sứ mạng cao cả là cứu đói cả nhà ở lại bằng những thùng quà từ Sydney. Anh Hai Lộc thuở ấy còn độc thân nên cũng tung trời y như đàn em lêu lổng dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có những đứa trong nhóm trẻ tuổi bắt buộc phải lăn lộn vào thị trường chợ đen để sinh tổn. Tất cả đều phát triển kiểu con ve của La Fontaine, tức là “kêu ve ve”, không phải suốt mùa hè mà là suốt mọi năm tháng. Thương nhớ Bố, nhưng chúng tôi không khóc thầm mà kêu ve ve. Trong nhóm có những con ve hát to và hát hay, nhỏ nhất là cục cưng Út của ông Sỹ và lớn nhất là anh Cả, bác sĩ Trương Minh Cường. Ban ngày ông bác sĩ đi “sờ voi” (tức là khám bệnh), ban tối sống kiếp con ve vì ông bác sĩ hát giọng rất trầm ấm. Có hai đứa bạn của thằng trưởng nam, nhập bọn đầu tiên bằng giọng hát hay và tấm lòng yêu văn nghệ, sau đó đoạt luôn danh hiệu “con nuôi” của Bố và “cạnh tranh” kịch liệt với tám con ruột. Ngoài ra còn có anh Hai lãnh đạo, biết truyền cho bầy em nuôi tinh thần hát cho qua ngày tháng và còn biết sáng tác nhạc nữa. Mỗi năm có biết bao dịp để toàn ban ngứa miệng hát chơi: Tết, Giáng Sinh, Trung Thu, sinh nhật của từng đứa, đầy tháng và đầy năm của những em bé mới ra đời. Có những lúc ve ve vui quá, chúng tôi lại chạnh lòng nhớ đến ông Bố điềm đạm nghiêm trang của mình. Tuy nhiên, thay vì bảo nhau vào nề nếp hơn, cả bọn lại quyết tâm “cho Bố vào nề nếp” khi Bố về.
Bố quả nhiên vào nề nếp khi về mái nhà xưa, tức là Bố hiền hòa ngoan ngoãn tham dự những buổi văn nghệ mà Bố đánh giá là “bỏ túi”. Anh Hai (ngoài luồng vì Bố có đẻ ra anh đâu) “đút lót” Bố bằng một bài hát mà anh đặt tên là Sáng Nay Mùa Xuân, và các con đã gọi nôm na là bài “Bố về”. Ngày đầu tiên “gánh hát” của anh Hai ra mắt Bố, Út Hương hát bài Bố Về, có cô của chúng tôi ngồi nghe, khóc thút thít. Cô là người được Bố dắt vào Nam, gả chồng để gia đình chúng tôi lại có một chi nhánh với nhiều con “ve” khác, chất lượng đều cao. Tuy nhiên, Bố dù có lịch sự vào nề nếp nhưng đồng thời cũng nâng cấp nề nếp. Bố đưa sáng kiến thành lập “đại học bỏ túi”, khuyến khích tất cả con cháu thuyết trình về bất kỳ đề tài nào mình quan tâm. Giá trị nhất là anh Hai Lộc mở lớp dạy sáng tác nhạc. Các em tham gia đều phải nhận assignment là ít nhất một sáng tác của riêng mình. Nhờ đó mà đứa nào cũng là tác giả của ít nhất một bài hát. Nếu hên quá, bài ấy hay thì coi đó là masterpiece của mình. Có đứa được đà, sáng tác tiếp, ra sản phẩm không hay thì dở. Bố nghe cười xòa, còn tôi thì lúc nào cũng có một lập trường: ra được sản phẩm là hay rồi.
Chuyện về Bố tới đó đã ly kỳ nhưng vẫn còn hồi sau. Trong hồi sau, Bố thu thập thêm kinh nghiệm tù tội của hồi trước, lại tiếp tục bị ngòi bút thôi thúc. Theo dõi Bố miệt mài đánh máy những dòng tư tưởng tuôn trào, tôi thường nhớ đến hai câu thơ của Hàn Mạc Tử:
“Thơ chưa ra khỏi bút, giọt mực đã rụng rời;
Lòng tôi chưa kịp nói, giấy đã toát mồ hôi.”
Hai câu thơ đầy kịch tính này mô tả đúng tính chất tuôn trào của lần phản kháng thứ hai của Bố. Lần đó công an gõ cửa vào giữa đêm bằng tiếng gõ thô bạo, thiếu nhân tính rất đặc thù của công an. Vẫn cảnh căn nhà bị lục tung, đổ đạc sách vở ngổn ngang khắp sàn, thêm cảnh thằng em trốn bộ đội núp dưới mái nhà phía sau, trong khi một tên công an xục xạo trần nhà phía trước. Công an vừa bỏ căn gác xuống nhà là thằng em rời chỗ trốn, leo qua lan can nhà hàng xóm và lỉnh ra khỏi xóm. Sau đó nó được một người bạn của Bố cho nhập vào một nhóm vượt biên, lấy chỗ mà họ đã để dành cho Bố. Mãi về sau nó là đứa được bạn bè Bố yểm trợ, bảo lãnh những người còn lại trong gia đình qua Mỹ.
Nói về Bố thì vô tận. Điều này đúng với cả người ngoài lẫn người trong gia đình. Ngày đám tang Bố, số người đến dự rất đông. Nhiều khách đến hỏi tôi “Chị Thanh đâu?” Tôi tìm không ra chị. Chị Thanh kể có người hỏi chị “Khánh đâu?” Chị cũng không tìm ra tôi. Có bạn văn của Bố, có học trò Bố, có bà con xa gần, có người đến tự giới thiệu đơn giản “Tôi chỉ là độc giả” Có một bạn học đến bảo “Khánh ra phía bên trái cửa vào, tụi bạn mình đợi Khánh ở đó”. Có những học trò biết cô chứ có biết Bố của cô là ai, vậy mà cũng đến. Hôm ấy tôi mới thực sự cảm nhận được sự yêu mến của mọi người đối với Bố và hiểu thấu đáo câu “tang gia bối rối.”
Không hiểu sao vị thầy đọc điếu văn trước lễ nhập quan Bố lại nhiều lần thốt lên hai chữ “Bố ơi”. Hai chữ ấy như một nhát dao vào tim tôi và lập tức làm tôi nước mắt tuôn trào.
Chữ “Bố” đặc biệt với tất cả tám con cùng các dâu rể của Bố. Chữ Bố gợi bao hình ảnh êm ái và sóng gió trong quãng đời phong phú của Bố. Một người bạn thân gọi điện thoại cho tôi ngay tối hôm tang lễ. Chị nói “Sẽ lâu lắm mới có một người như ông Sỹ trên cõi đời này.” Tôi nhận ngay câu khen ngợi, không tìm cách khiêm cung.
Riêng các con, từ khi còn quây quần bên Bố, đều đã tự chê mình không “lượm” được cây bút của Bố. Tuy nhiên, trưởng nữ có lượm được lòng yêu chữ nghĩa nên vẫn miệt mài làm việc với sách vở trong thư viện Sydney. Trưởng nam lượm lòng yêu âm nhạc nên nhanh nhẹn làm một bài hát cuối cùng cho Bố và Út trai là đứa thừa hưởng khả năng phân tích âm nhạc của Bố từ thuở lọt lòng. Thứ nữ kế tôi thì yên tâm là đã làm caregiver lo cơm nước cho Bố đằng đẵng bao năm trời. và Út gái thì cũng yên tâm vì đã cương quyết “spoil” Bố bằng cách rủ Bố “đi chơi” triền miên. Hai thứ nam có đứa làm thơ (một việc mà Bố chỉ “dọa” chứ chưa bao giờ làm), đứa làm báo, cũng là bầu bạn với chữ nghĩa, theo đúng ý Bố.
Riêng tôi thì đã xin viên phấn của Bố từ lâu, hôm nay xin mượn cây bút của Bố để viết những dòng này, trong khi thầm gọi “Bố ơi!” Tôi biết mình sẽ gọi “Bố ơi” cho đến cuối đời mình.
Doãn Kim Khánh
Nov 4, 2025

No comments:
Post a Comment