Nov 25, 2014

CHÀNG VUA TRẺ - Oscar Wilde

 

CHÀNG VUA TRẺ

Tác giả: Oscar Wilde
Dịch giả: Út Hương
Nguồn hình: https://www.google.com/search?q=photos+the+young+king+oscar+wilde


Đêm trước ngày đăng quang, chàng vua trẻ ngồi một mình trong căn phòng tuyệt đẹp.  Các cận thần cúi đầu sát đất bái chào tạm biệt chàng theo đúng nghi lễ.  Họ rời cung điện để đến học thêm một số nghi thức với vị quan chuyên lo lễ nghi trong triều.  Phải nói rằng trong đám quần thần có nhiều vị hành xử rất được nhưng vẫn có một số hành xử rất tệ. 

Chàng trai trẻ - chàng còn rất trẻ, chỉ mới mười sáu tuổi, không cảm thấy quyến luyến gì với đám cận thần.  Chàng thở phào nhẹ nhõm, ngả lưng trên chiếc gối mềm đặt trong ghế trường kỷ có thêu hoa. Mắt chàng mở to, miệng chàng há rộng nhìn giống vị thần rừng Faun, và cũng giống những con thú nhỏ trong rừng bị xập bẫy của thợ săn. 

Thật ra cũng chính đám thợ săn tình cờ tìm thấy chàng.  Khi ấy chàng - chân đi đất, tay cầm ống tiêu, đang ở chung với bầy con của vợ chồng người chăn cừu nghèo.  Hai vợ chồng này đã nuôi nấng chàng từ bé và chàng cũng xem họ như cha mẹ của mình.  Thật sự chàng là sản phẩm của một mối tình lén lút giữa công chúa – người con gái duy nhất của vị vua già, và một chàng trai thuộc giai cấp thấp hơn nàng.  Chàng trai đã mê hoặc nàng bằng tiếng đàn tỳ bà của mình.  Có lời đồn rằng chàng trai đó - người nghệ sĩ đến từ xứ Rimini được công chúa vô cùng yêu mến - bỗng dưng biến mất khi chưa hoàn tất công việc đang làm cho nhà thờ.  Cũng có lời đồn rằng khi mới một tuần tuổi, khi đang nằm ngủ cạnh mẹ, ai đó bắt cóc chàng, rồi bỏ chàng trước nhà một cặp vợ chồng người nông dân không có con sống gần bìa rừng cách đó hơn một ngày đường.  Lại có lời đồn rằng vì công chúa gặp chuyện buồn hay mắc phải bịnh dịch, một giờ sau khi đánh thức nàng dậy, viên ngự y cho nàng uống ly rượu mà ông đã hòa vào đó vài giọt thuốc độc của Ý có hiệu ứng nhanh.  Nàng công chúa đó chính là người sinh ra chàng.   Có lời kể rằng người đưa tin của vua mang chàng trên lưng ngựa chạy đến trước cửa lều người chăn cừu.  Khi ông ta xuống ngựa, nhấc chàng ra khỏi yên, bước đến gõ cửa lều,  đấy cũng là lúc xác của nàng công chúa được đưa xuống huyệt đã đào sẵn trong khuôn viên nhà thờ vắng lặng trước cổng thành.  Nàng được chôn cùng chỗ với người đàn ông người không cùng xứ có vẻ mặt tuyệt đẹp, tay bị trói, ngực bị đâm.


Đó là những lời đồn đại người đời truyền tai nhau.  Nhưng sự thật là vị vua già, khi nằm trên giường bệnh, hoặc ăn năn về tội lỗi tày trời mình đã gây ra, hoặc không muốn vương quốc của mình về tay người khác, đã cho người đi đem chàng trai trẻ về, công bố trước quần thần đây là người nối dõi của ông. 

Dường như khi chàng trai trẻ nhận thức được bản thân mình có niềm đam mê kỳ lạ về cái đẹp, đó chính là lúc cái đẹp ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời chàng.  Có người kể rằng khi bước vào phòng chứa tư trang, chàng thường reo vui khi nhìn thấy tấm áo mỹ miều và nữ trang quý giá được chuẩn bị cho chàng.  Chàng còn nhảy múa điên cuồng trong chiếc áo chẽn làm bằng da và chiếc áo khoác làm bằng lông cừu.

Thật ra, chàng rất nhớ cuộc sống tự do khi còn ở trong rừng vì giờ đây các lễ nghi cung đình chán ngắt chiếm quá nhiều giờ trong ngày của chàng.  Tuy nhiên, cung điện mang tên “Niềm Vui” – nơi chàng được gọi là “Ngài”, cũng mang lại khoái cảm cho chàng vì đây là một thế giới hoàn toàn mới đối với chàng.  Mỗi khi thoát được đám cận thần hay rời được phòng khánh tiết, chàng liền chạy đến chiếc cầu thang có tượng sư tử làm bằng đồng đặt hai bên, có những bậc thang rộng mênh mông sáng loáng làm bằng đá cứng.  Chàng chạy xuống cầu thang, dạo chơi hết phòng này đến phòng nọ, hết hành lang nọ đến hành lang kia.  Khi ấy chàng giống như người bệnh đi tìm thuốc uống cho hết đau, và chàng tìm thấy trong cái đẹp có liều thuốc trị bịnh cho mình. 

Hầu hết chàng tự đi khám phá cung điện- chàng vẫn gọi đùa như vậy đối với chàng, thật sự đó là những chuyến viễn du trên vùng đất kỳ diệu.  Nhưng thỉnh thoảng nhóm cận thần tóc vàng cũng dẫn chàng đi.  Nhóm cận thần này có thân người mảnh khảnh, thường mặc áo choàng dài có đính nhiều dải ruy-băng bay phất phơ.  Tuy nhiên chàng có linh cảm rằng cách hay nhất tìm hiểu những bí ẩn trong nghệ thuật là âm thầm tìm hiểu một mình.  Chẳng phải đó là lý do những người ngưỡng mộ điều hay ý đẹp đều là những người đơn độc. 

Có nhiều câu chuyện ngộ nghĩnh được kể về chàng trong giai đoạn này.  Ví dụ ngài thị trưởng Hòa Lan thuật lại khi ông đại diện đất nước Hoà Lan đến gặp chàng để đọc bài diễn văn đầy lời hoa mỹ, ông bắt gặp chàng đang quỳ gối thưởng thức bức tranh vừa mua từ Venice về.  Khi ấy chàng giống như đang tỏ lòng tôn kính những vị thần linh mới. 

Trong một dịp khác, chàng biến mất làm mọi người đổ xô đi tìm cả giờ đồng hồ, và hồi lâu sau, họ kiếm thấy chàng đang ngồi trong một tháp nhỏ nằm trong khuôn viên lâu đài.  Chàng nhìn chằm chằm vào bức tượng Adonis - người yêu của thần Venus, được trạm từ viên đá lấy từ Hy Lạp.  Có lời đồn rằng chàng đã kề môi hôn lên đôi lông mày làm bằng cẩm thạch của bức tượng.  Bức tượng này được tìm thấy trong lòng sông khi người ta xây chiếc cầu đá có khắc tên Hadrian – tên của người nô lệ xứ Bitthynya.  Lại có lời kể rằng chàng đã thức thâu đêm để chiêm ngưỡng ánh trăng phản chiếu trên bức tượng bạc Endymion.

Tất cả các loại đá quý hiếm đều làm chàng mê mẩn, và trong cơn cuồng loạn sưu tầm đá quý, chàng đã phái nhóm người lái buôn đi khắp nơi, kẻ thì tìm mua hổ phách từ đám người đánh cá ở vùng biển bắc, người thì đi Ai Cập tìm mua ngọc turquoise có ma lực lấy từ mộ các vì vua; nhóm này đi Ba Tư mua thảm lụa và bình sành sứ, nhóm khác đi Ấn độ mua vải lụa, ngà đen, đá mặt trăng, vòng cẩm thạch, trầm hương, bình gốm xanh, và khăn len mịn.


Nhưng việc làm chàng bận tâm nhiều nhất là việc chuẩn bị chiếc áo choàng dệt vải có đính vàng mà chàng sẽ mặc trong ngày đăng quang, chuẩn bị chiếc vương miệng có đính hạt ruby, và chuẩn bị cây quyền trượng có nhiều ngọc trai đính quanh. Thật vậy, khi ngả lưng trong chiếc ghế bành xa hoa lộng lẫy, chàng suy nghĩ về ba thứ ấy.  Mắt chàng đăm chiêu nhìn ánh lửa bùng lên từ mớ củi thông đang cháy rực trong lò sưởi. 

Các nhà thiết kế nổi tiếng nhất xứ đã gửi đến chàng bản vẽ của họ từ mấy tháng trước.  Chàng đã ra lệnh các nghệ nhân ra sức làm việc ngày đêm, và mọi người trong vương quốc đổ xô đi kiếm đá quý để  phục vụ cho những thiết kế ấy.  Tưởng tượng cảnh mình đứng trên tòa cao trong chiếc áo đẹp của Vua, đôi môi non trẻ của chàng nở nụ cười, ánh mắt đen lánh của chàng sáng rực một vẻ đẹp rừng rú. 

Ngồi hồi lâu, chàng đứng dậy ra khỏi ghế, đến tựa vào bức tường gần lò sưởi, chàng nhìn quanh căn phòng dưới ánh sáng lờ mờ.  Bốn bức tường được trang trí bằng những tấm thảm đắt tiền có hình vẽ “Triumph of Beauty”.  Kê sát vách trong góc phòng bên kia là một tủ lớn làm bằng đá mã não và đá màu xanh da trời. Nằm đối diện với cửa sổ là chiếc tủ được đóng bằng những tấm gỗ sơn mài có trạm trổ và đính bột vàng.  Bên trong tủ, chàng thấy một dãy ly nhỏ có dáng thanh tao làm bằng thủy tinh xứ Venise, và một chiếc cốc lớn làm bằng mã não vân đen. 

Trên tấm trải giường may bằng lụa, hoa thuốc phiện màu nhợt nhạt được thêu rũ xuống giống như rơi từ bàn tay của người ngủ gục vì mệt mỏi. Trên tấm màn nhung treo giữa cặp ngà voi, chùm lông mào đà điểu bung ra y như bọt nước trắng xóa tung lên trần nhà có màu bạc nhạt nhẽo.  Kia là đóa hoa thủy tiên làm bằng đồng xanh đỡ lấy mặt tấm gương.  Một chiếc bát làm bằng thạch anh tím được đặt trên bàn kề bên. 

Bên ngoài chàng thấy vòm nhà thờ hiện ra như những chiếc bong bóng nước nằm trên dãy nhà mờ ảo, đội lính canh đi tới, đi lui dọc theo dãy sân dọc bờ sông.  Xa xa trên cành cây, một chú họa mi đang hót.  Mùi hoa nhài thoang thoảng lan đến cửa sổ.  Chàng đưa tay hất lọn tóc từ trước trán ra sau, rồi nâng cây đàn tỳ bà, dùng ngón tay khẩy đàn. Mí mắt sụp xuống, chàng bỗng thấy toàn thân suy nhược.  Trước đây chưa bao giờ chàng cảm nhận được sự huyền bí và ma lực của những món đồ đẹp. 

Chuông đồng hồ báo đã nửa đêm.  Chàng với tay rung chiếc chuông nhỏ, bầy tùy tùng liền bước vào phòng, làm những lễ nghi rườm rà thay áo cho chàng, rửa tay bằng nước hoa hồng cho chàng và rải hoa trên gối chàng.  Vài phút sau, bọn họ rút lui, chàng thiếp ngủ. 

Chàng mơ một giấc mơ, và đây là giấc mơ của chàng.  Chàng thấy mình đang đứng trong một căn phòng dài nằm sát dưới mái nhà, tai nghe âm thanh vù vù lóc cóc phát ra từ nhiều bóng mờ đứng gần đó.  Tia nắng ngày gầy guộc lấp ló sau cửa sổ, giúp chàng thấy được hình ảnh những người thợ dệt đang cong mình bên khung cửi. 

Mấy đứa trẻ xanh xao cuộn mình nằm dưới thanh xà ngang.  Những khi con thoi vút nhanh qua sợi dọc, đó là lúc những tấm ván nặng được đưa lên, và khi con thoi dừng, những tấm ván nặng rơi xuống, ép tất cả sợi chỉ lại với nhau.  Khuôn mặt của những người thợ dệt mệt mỏi, bàn tay gầy còm của họ run bần bật.  Một số phụ nữ với khuôn mặt hốc hác ngồi cạnh bàn thêu.  Mùi mồ hôi tràn ngập khắp phòng. Bầu không khí bị nhiễm độc, nặng nề. Bờ tường đổ mồ hôi, bốc mùi ẩm ướt. 

Chàng vua trẻ đến đứng cạnh bên một người thợ dệt, chăm chú nhìn ông ta. 
Người thợ dệt ấy nhìn lên, giận dữ hỏi, ‘Tại sao anh nhìn tôi? Có phải anh theo lệnh chủ của chúng tôi đến đây làm mật thám?”

 ‘Ai là chủ của ông?’ chàng vua trẻ hỏi.

 ‘Chủ của chúng tôi cũng là một con người giống tôi.  Nhưng thật ra, giữa tôi và chủ có một điểm khác nhau vô cùng.  Đó là ông ta được mặc áo đẹp, trong khi tôi mặc áo rách mướt, và đồ ăn dành ông ta luôn luôn thừa mứa trong khi tôi luôn bị đói.’ 

‘Đây là một vương quốc dân chủ,’ chàng vua trẻ nói, ‘Ông không phải làm nô lệ cho bất kỳ ai.’

‘Trong thời chiến,’ người thợ dệt đáp, ‘kẻ mạnh bắt kẻ yếu làm nô lệ.  Trong thời bình, người giàu bắt người nghèo làm nô lệ.  Chúng tôi phải làm việc để sống, nhưng đồng lương họ trả chúng tôi là đồng lương chết đói.  Chúng tôi làm việc vất vả suốt ngày để phục vụ bọn họ, để khi chết, họ nằm trong đống vàng.  Gương mặt con cái của chúng tôi ngày một tái xanh và gương mặt của những người chúng tôi thương ngày càng khô cằn và hắc ám.  Chúng tôi còng lưng hái nho, kẻ giàu ngồi thưởng thức rượu nho.  Chúng tôi là người trồng bắp nhưng chẳng có gì ăn trong ngày. Chẳng ai nhìn thấy sợi dây xích vô  hình họ dùng để xiềng chúng tôi nên chúng tôi chẳng khác nào là kẻ nô lệ cho dù chúng tôi được gọi là những người tự do.’

‘Tất cả những người ở đây đều chịu chung số phận như vậy sao?’

‘Tất cả đều cùng chung số phận,’ người thợ dệt trả lời, ‘người trẻ cũng như người già, phụ nữ cũng như nam giới, trẻ con cũng như người đã bị hành hạ lâu năm.  Bọn lái buôn áp bức chúng tôi, chúng tôi chỉ biết phục tùng mệnh lệnh.  Cha cố có đi ngang qua, chỉ để ý đến việc lần tràng hạt, chẳng ai để tâm đến chúng tôi.  Căn ngõ chúng tôi đang sống không có ánh sáng, chỉ có bà chúa Bần Cùng-Nghèo Khó có đôi mắt đói ăn chịu chui vào.  Theo sau bà là ông hoàng Tội Lỗi với khuôn mặt đầm đìa nước mắt.  Nỗi bất hạnh đánh thức chúng tôi dậy mỗi sáng.  Sự tủi thẹn ở với chúng tôi suốt đêm.  Anh làm sao hiểu được những điều này.  Anh không thuộc nhóm người của chúng tôi.  Gương mặt của anh quá tươi vui hạnh phúc.’ Người thợ dệt giận dữ quay đi, quăng con thoi vào một bóng mờ, và chàng vua trẻ nhận ra những sợi chỉ dệt ấy có đính vàng. 

Chàng bàng hoàng, cất tiếng hỏi người thợ dệt, ‘Các anh đang dệt vải may áo cho ai vậy?’
‘Dệt vải để may áo choàng cho vị vua trẻ mặc trong ngày đăng quang,’ người thợ dệt trả lời; ‘việc này dính gì đến anh?’

Chàng vua trẻ bật khóc và giật mình thức dậy.  Chàng thấy mình đang nằm trong căn phòng của mình, và nhìn qua cửa sổ, chàng thấy vầng trăng vàng đang lơ lửng trên vùng trời u tối. 
Chàng thiếp ngủ lại.  Chàng mơ một giấc mơ và đây là giấc mơ của chàng.

Chàng nghĩ mình đang ngồi dưới bong tàu giữa  một trăm người nô lệ.  Ngay cạnh chàng là ông thuyền trưởng đang ngồi trên tấm thảm. Ông có nước da đen như mun, đậu đội khăn nhung đỏ.  Ông đeo hai khoen bông tai lớn bằng bạc, tay cầm một cặp cân bằng ngà voi. 

Tất cả nô lệ đều ở trần, mặc khố, và ai cũng bị xích với người đứng bên cạnh.  Ánh mặt trời chói chang là những làn roi quất mạnh lên da người nô lệ khi họ phải chạy qua, chạy lại trên sàn tàu.  Những đôi tay khẳng khiu  của họ nặng nhọc kéo mái chèo lên khỏi nước.  Bụi nước tung bay từ mái chèo.

 

Cuối cùng họ cũng đến được một vịnh nhỏ, bắt đầu công việc thăm dò chiều sâu vùng vịnh.  Một làn gió nhẹ thổi ra từ bờ làm bụi đỏ phủ đầy khoang và buồm tàu.  Có ba tên Ả Rập cỡi lừa xuất hiện, lấy giáo ném vào đám người nô lệ.  Ông thuyền trưởng đứng trên bong tàu rút cung nhắm vào một tên và bắn.  Tên Ả Rập bị trúng tên, ngã nhào xuống đất.  Hai tên còn lại phi nước đại bỏ chạy.  Một người đàn bà có tấm khăn che mặt màu vàng chậm rãi đi theo sau hai tên đó, nhưng thỉnh thoảng quay lại nhìn xác tên Ả Rập đang nằm lại. 

Thả neo và hạ buồm xong, nhóm người nô lệ da đen khiêng một chiếc thang dây dài và nặng như chì.  Ông thuyền trưởng ném chiếc thang qua một bên, cột chặt đầu thang vào hai cọc bằng sắt.  Kế đó vài người nô lệ buộc dây xích vào người anh nô lệ nhỏ tuổi nhất, dùng sáp đổ vào lỗ mũi và lỗ tai anh để nước đừng vào, đeo thêm đá vào hông anh để anh chìm được sâu.  Anh nô lệ nhỏ tuổi theo thang bước xuống và mất bóng trong đại dương.  Một vài bọt nước nổi lên khi anh đắm mình trong biển.  Một số nô lệ khác tò mò nhìn theo. Người chuyên gọi cá mập ngồi trên mũi tàu gõ trống đều đều. 

Một lúc sau anh nô lệ nhỏ tuổi trồi lên từ mặt nước.  Anh thở hổn hển, tay trái bám vào chiếc thang dây, tay phải cầm một hạt ngọc.  Những người nô lệ khác ngủ gục trên chiếc mái chèo. 
Cứ mỗi lần trồi lên, anh đều mang theo một hạt ngọc tuyệt đẹp.  Ông chủ tàu cân từng viên, rồi cất chúng vào một túi da màu xanh lục. 

Chàng vua trẻ muốn cất tiếng nói nhưng dường như lưỡi của anh dính chặt vào nóc họng và môi của anh không cử động được.  Đám người nô lệ nói qua nói lại với nhau, rồi bắt đầu gân cổ cãi nhau.  Hai con sếu bay vòng vòng quanh tàu. 

Anh chàng nô lệ trẻ trồi lên lần cuối cùng, và viên ngọc lần này anh mang lên đẹp hơn tất cả các viên ngọc xứ Ormuz.  Viên ngọc tròn như mặt trăng đêm rằm, sáng hơn cả vì sao mai.  Nhưng gương mặt của anh nô lệ trẻ tái nhợt, máu trào ra khỏi tai và mũi.  Anh run bần bật hồi lâu rồi nằm bất động.  Những người nô lệ khác chuyển xác anh qua một bên. 

Ông thuyền trưởng tay cầm lấy viên ngọc cuối cùng, cất tiếng cười vang và ép viên ngọc vào trán, làm động tác bái chào và nói, ‘Đây sẽ là viên ngọc được đính vào quyền trượng của vị Vua trẻ.’ Nói xong, ông ra lệnh cho đám nô lệ nhổ neo. 

Khi nghe được những lời nói của người thuyền trưởng, chàng vua trẻ khóc rống và giật mình thức dậy.  Nhìn qua cửa sổ, chàng thấy những ngón tay xám dài của buổi bình minh đang giật lấy ánh sáng phát ra từ những ngôi sao mờ. 

Chàng thiếp ngủ lại.  Chàng mơ một giấc mơ và đây là giấc mơ của chàng.
Chàng thấy mình đi lang thang trong một khu rừng tối, trong rừng đầy trái lạ, hoa đẹp nhưng độc.  Mấy con chuồn chuồn huýt gió gọi chàng khi chàng đi ngang chúng.  Vài con két màu sắc sặc sỡ truyền từ cành này sang cành khác, miệng kêu quang quác.  Mấy bác rùa khổng lồ nằm ngủ trong vùng bùn ấm.  Cây nào cũng đầy khỉ và công.   

Chàng cứ rảo bước lang thang cho đến khi đi đến bìa rừng, nhìn thấy vô số người đang làm việc trên đáy sông đã cạn nước.  Một nhóm người bám vào vách núi đá nhìn như bầy kiến cheo leo.  Một nhóm khác chui xuống hầm họ vừa đào xong.  Kẻ dùng rìu đẽo đá, kẻ dùng tay bới cát.  Họ nhổ cây xương rồng tận gốc, rồi lấy chân dẫm nát những đóa hoa đỏ tươi.  Họ đi tới đi lui, gọi nhau ơi ới, chẳng ai ngồi rỗi. 

Đứng trong hang tối, thần Chết và thần Tham Lam theo dõi đám người đang làm việc.  Thần Chết nói, ‘Tôi mệt rồi.  Chia cho tôi một phần ba bọn họ rồi tôi đi.’

Thần Tham Lam lắc đầu.  ‘Tất cả bọn họ là của tôi.’ 

Và thần Chết hỏi tiếp, ‘Bạn cầm gì trong tay vậy?’

‘Tôi có ba hạt bắp,’ thần Tham Lam trả lời.  ‘Tại sao anh hỏi?’

‘Cho tôi một hạt đi,’ thần Chết xin, ‘tôi mang về trồng trong vườn nhà.  Cho tôi một hạt thôi, rồi tôi sẽ đi.’

‘Tôi sẽ không cho anh thứ gì hết,’ nói xong, thần Tham Lam nắm chặt bàn tay và giấu tay vào trong áo. 

Thần Chết bật cười, lấy ra một cái ly, dìm ly vào trong hồ nước, tức thì thần Sốt Rét trồi lên.  Thần Sốt Rét luồn qua đám người, thế là một phần ba bọn họ lăn ra chết.  Một làn sương mù lạnh bay đến bên thần Sốt Rét, bầy rắn nước cũng trườn đến bên cạnh. 

Khi thần Tham Lam thấy một phần ba đám người ngã lăn ra chết, bà đấm tay vào lồng ngực gầy gò của mình và than khóc, ‘Anh giết hết một phần ba đám nô lệ của tôi. Anh xéo ngay đi! Vùng núi Tartary đang có chiến tranh đó.  Mấy người vua tham gia trận chiến đang gọi anh kia.  Dân Afghanistan đang giết bò đen và kéo ra chiến trường.  Họ đang đập mác vào khiên và đã đội sẵn nón sắt.  Anh nán lại khu vực của tôi làm gì chứ hả? Xéo ngay đi và đừng bao giờ trở lại đây.’ 

‘Tôi không đi đâu hết,’ thần Chết đáp, ‘Bạn chưa cho tôi hạt bắp thì tôi vẫn cứ ở đây.’

Thần Tham Lam nắm chặt bàn tay hơn, nghiến răng và nói, ‘Tôi sẽ không cho anh thứ gì hết!’

Thần Chết mỉm cười, đưa tay lấy một hòn đá đen, liệng đá vào khu rừng, lập tức thần Sốt Rét mặc áo lửa xuất hiện từ cây độc cần mọc dại trong rừng.  Thần Sốt Rét đi vào trong đám người, chạm vào ai, người ấy chết ngay tức khắc. 

Thần Tham Lam rùng mình, đưa tay lấy nắm tro bỏ lên đầu. ‘Sao lại tàn ác thế,’ bà khóc; ‘quá tàn ác!  Có nạn đói ở Ấn Độ, có nạn khát ở Samarcand.  Người dân ở Ai Cập đang chết đói vì lũ châu chấu từ sa mạc bay về phá mùa màng.  Nước sông Nile đang khô cạn, vua chúa ở đó đang nguyền rủa thần Isis và thần mùa màng Osiris.  Đi đến đó đi, những chỗ ấy đang cần anh.  Nô lệ của tôi, để tôi lo.’

 
‘Tôi không đi đâu hết,’ thần Chết đáp, ‘Bạn chưa cho tôi một hạt bắp thì tôi vẫn cứ ở đây.’
‘Tôi sẽ không cho anh thứ gì hết!’

Và thần Chết lại cất tiếng cười, đưa tay huýt sáo, liền sau đó trong hư không một người đàn bà xuất hiện.  Trên trán của mụ có ghi chữ Bệnh Dịch.  Đám người gầy còm vây tròn quanh mụ.  Mụ vươn đôi cánh bao trùm toàn thung lũng, sau đó chẳng còn ai sống sót. 

Thần Tham Lam kêu thét ầm vang khắp rừng, và thần Chết leo lên lưng ngựa đỏ, phi nước đại bỏ đi nhanh hơn gió. 

Trong đáy thung lũng lồm cồm bò lên một con rồng gầy nhom với bộ vẩy trông ghê rợn.  Cùng lúc ấy một đám chó rừng chạy nhanh trên cát, nghỉnh mũi hửi trong không gian. 

Chàng vua trẻ khóc ròng, cất tiếng hỏi: ‘Đám người kia là ai và đang tìm kiếm gì vậy?’

Một người đứng sau chàng đáp, ‘Họ đi tìm đá rubi để đính vào vương miện cho nhà vua trẻ.’

Chàng vua trẻ giật mình quay đầu lại, nhìn thấy người đàn ông ăn mặc như một người đi hành hương, tay cầm chiếc gương bằng bạc.  

Mặt chàng tái nhợt, ‘Vua nào?’, chàng hỏi.

Người hành hương trả lời: ‘Hãy nhìn vào tấm gương này, anh sẽ thấy vị vua ấy.’

Anh nhìn vào, thấy chính mình trong gương, anh thét lớn và thức dậy.  Khi ấy ánh sáng ban mai đã tràn vào phòng, bầy chim đậu trên cành cây trong vườn hót líu lo. 

Viên quan thị vệ và các quan cận thần khác bước vào, tất cả cúi đầu chào chàng.  Những người hầu mang áo choàng dệt bằng vải đính sợi vàng, đặt chiếc vương miện và quyền trượng trước mặt chàng. 

Chàng vua trẻ nhìn ba báu vật ấy, thấy chúng đẹp làm sao.  Chàng thấy chúng đẹp hơn cả vẻ đẹp bề ngoài của chúng.  Chàng nhớ đến ba giấc mơ của mình, quay lại nói với các quần thần của mình: ‘Hãy đem tất cả những thứ này đi đi.  Ta sẽ không dùng chúng đâu.’

Các quan cận thần ngạc nhiên, một số trong bọn họ cất tiếng cười, nghĩ rằng chàng vua trẻ vừa nói lời đùa cợt. 

Nhưng chàng vua trẻ lập lại bằng một giọng nghiêm khắc: ‘Đem chúng đi và đừng để ta thấy chúng.  Hôm nay là ngày đăng quang của ta nhưng ta nhất quyết không mặc và dùng chúng.  Chiếc áo này được dệt bởi những bóng mờ sầu muộn và những bàn tay nhọc nhằn.  Trong viên ruby này toàn máu, và cái chết đang ngự trong lòng viên ngọc.’  Rồi chàng kể cho mọi người nghe ba giấc mơ của mình. 

Các quan cận thần nghe xong, họ nhìn nhau, có vài kẻ thì thầm với nhau: ‘Vua điên mất rồi, giấc mơ là giấc mơ, thực tế là thực tế.  Giấc mơ không phải là thực tế, việc gì phải để ý đến giấc mơ.  Thực tế là Vua cần phải làm gì cho những người làm việc cật lực cho Vua? Chẳng lẽ Vua không ăn bánh mì nếu chưa gặp được người gieo hạt lúa mì, hay không uống rượu khi chưa nói chuyện được với người trồng nho?

Vị quan thị vệ bèn nói với chàng Vua trẻ, ‘Thưa Ngài, xin Ngài hãy bỏ qua một bên những suy nghĩ bi quan và hãy mặc chiếc áo đẹp này vào người và đội chiếc vương miện này lên đầu.  Nếu không mặc y phục dành cho Vua, làm sao người ngoài biết Ngài là Vua?’

Chàng vua trẻ nhìn viên quan thị vệ và hỏi, ‘Thật vậy sao? Nếu ta không mặc y phục của vua, người ta sẽ không biết ta là vua?’

Viên quan thị vệ nói, ‘Thưa đúng vậy, không ai biết Ngài là Vua.’

‘Ta đã từng nghĩ có người không cần mặc y phục vua vẫn hành xử như vua, nhưng thôi, có thể khanh nói đúng.  Tuy không mặc chiếc áo choàng này, cũng không đội vương miện này, nhưng đã đến nơi đây, ta quyết tiếp tục cuộc hành trình.’

Chàng ra lệnh tất cả ra ngoài, chỉ cho phép người hầu nhỏ hơn chàng một tuổi ở lại.  Chàng giữ người hầu lại nhưng tự tắm rửa cho mình, rồi đến tủ, lấy ra chiếc áo chẽn bằng da và chiếc áo khoác lông cừu mà chàng đã mặc khi còn đi chăn dê trên đồi cao.  Mặc xong y phục vào, chàng cầm thêm chiếc gậy chăn cừu. 

Người hầu nhỏ mở tròn đôi mắt xanh ngạc nhiên nhìn chàng, mỉm cười hỏi, ‘Thưa Ngài, con đã nhận ra Ngài trong bộ quần áo của vua và cây quyền trượng.  Thế vương miện của Ngài đâu?’
Chàng vua trẻ với tay hái một dây thạch lam mọc dại trên ban công, quấn nó lại, rồi đặt lên đầu. 
Chàng trả lời, ‘Đây là vương miện của ta.’

Với bộ trang phục này, chàng bước vào đại sảnh nơi các quan cận thần đang đứng chờ chàng.
Mọi người tung hô vạn tuế, nhưng cũng có một vài người la lớn, ‘Thưa Ngài, các thần dân của Ngài đang chuẩn bị đón chào một vị Vua, sao Ngài nỡ lòng nào lại ăn mặc như một kẻ ăn mày.’  Một vài người khác nói mạnh miệng hơn, ‘Người này đem nhục đến vương quốc của chúng ta, không xứng đáng là Vua của chúng ta.’ Nhưng chàng không nói một lời, cứ thế bước xuống bậc thang, ra khỏi cổng, leo lên lưng ngựa cưỡi về phía nhà thờ, người hầu nhỏ theo kề bên.

Người dân đứng bên đường thấy chàng, cười rộ chế riễu, ‘Thằng nhỏ vừa chạy ngựa qua là tên hề của vua.’

Chàng kéo cương dừng lại và nói, ‘Không, ta chính là vua.’ Rồi chàng kể cho những người dân thường nghe ba giấc mơ của chàng.

Một người đứng trong đám đông bước ra nói những lời cay đắng với chàng, ‘Thưa Ngài, hẳn Ngài cũng biết nhờ người giàu mà người nghèo có việc làm?  Những vật dụng xa hoa của Ngài đã nuôi sống chúng tôi, những đòi hỏi phi lý của Ngài đã giúp chúng tôi có bánh mì.  Làm việc cho chủ đúng là cực nhọc, nhưng nếu không có chủ thì không có việc làm, cuộc sống còn tệ hơn.  Ngài có biết rằng mấy kẻ bóc lột chính là người nuôi sống chúng tôi?  Ngài tính cứu vãng tình hình này bằng cách nào?  Ngài có định nói với người mua, “Anh phải trả tiền cho hậu hĩnh vào,” và nói với người bán, “Anh chỉ bán giá này được không?” Tôi nghĩ Ngài sẽ không làm như vậy.  Xin Ngài hãy quay về cung điện, mặc y phục sang trọng của vua. Những việc làm của Ngài không giúp chúng tôi bớt khổ.’  

‘Vậy người giàu và người nghèo là anh em của nhau ư?’ chàng vua trẻ hỏi.

‘Đúng vậy, thưa Ngài,’ người đàn ông trả lời, ‘và tên của người giàu là Kẻ Sát Nhân.’

Chàng vua trẻ ứa nước mắt, tiếp tục bước đi trong tiếng rì rầm bàn tán của dân chúng.  Chú hầu nhỏ sợ tái mặt, quyết định không theo chàng Vua trẻ. 

Khi chàng vua trẻ đến cổng nhà thờ, mấy tên lính canh dùng cây kích chặn chàng lại, ‘Kiếm ai ở đây? Không ai được bước qua cổng này trừ nhà Vua.’

Chàng vua trẻ đỏ mặt giận dữ, trả lời đám lính canh, ‘Ta chính là vua đây,’ và gạt cây kích của bọn họ qua một bên, tiến vào bên trong.

Thấy chàng bước vào trong chiếc áo chăn cừu, vị cha cố già đứng dậy tiến đến chào chàng và nói, ‘Con trai của ta, quần áo vua đâu, sao không mặc? Không có vương miện, sao ta đăng quang cho con? Quyền trượng nữa, không có, làm sao ta trao cho con được? Hôm nay là ngày vui của con, không thể là ngày hạ bậc con.’

‘Cha nghĩ sao, Hạnh Phúc có thể mặc áo của Bất Hạnh may cho sao?’chàng vua trẻ hỏi, rồi kể cho vị Cha cố nghe ba giấc mơ của mình. 

Vị Cha cố nghe xong, cau mày nói, ‘Con trai của ta, ta nay đã già.  Nhìn lại những giai đoạn gặp khó, ta thấy có nhiều điều sai trái xảy ra trong thế giới rộng lớn này.  Mấy tên cướp hung hăng từ núi xuống làng, lấy cắp trẻ em đem bán cho người Moor.  Lũ sư tử rình đoàn người đi buôn, gặp cơ hội là tấn công ngay mấy con lạc đà của họ.  Bầy lợn rừng đi phá gốc bắp dưới thung lũng, bầy sói gặm phá dây nho trên đồi.  Hải tặc thải đồ dơ trên bãi biển, đốt tàu của ngư dân và lấy cướp lưới đánh cá của họ.  Người hủi sống vùng đầm lầy, lấy lau sậy làm vách nhà, chẳng ai dám đến gần họ. Người nghèo lang thang khắp thành phố, ăn thức ăn của chó.  Con nghĩ con có thể ngăn không cho những việc ấy xảy ra được không? Con nghĩ con có thể ngủ chung giường với người hủi không? Con có dám tuyển dụng người ăn mày làm quan cận thần?  Liệu đám sư tử và lũ heo rừng chịu theo lệnh của con? Thượng Đế khôn ngoan hơn con nhưng vẫn quyết định tạo ra nỗi bất hạnh.  Chẳng phải ta không tán đồng quyết định của con, nhưng ta yêu cầu con nên quay về Hoàng cung với khuôn mặt tươi tắn, mặc y phục của vua vào cho ra dáng một vị vua, đội sẵn vương miện bằng vàng mà ta sẽ đội cho con, và cầm sẵn cây quyền trượng mà ta sẽ trao cho con.  Còn về những giấc mơ, đừng nghĩ đến chúng nữa.  Những gánh nặng của thế gian này một người không gánh hết, cũng như những nỗi sầu của thế gian này một người không cam nổi. 

‘Cha có thể nói như thế trong Thánh đường ư?’ chàng vua trẻ hỏi, rồi lách qua vị Cha cố, bước lên bàn thờ, đứng đối diện với hình tượng Chúa. 

Chàng đứng trước hình tượng Chúa, hai bên hình tượng là những chiếc bình làm bằng vàng tuyệt đẹp, là cốc rượu lễ, là bình đựng dầu thánh.  Chàng quỳ trước hình tượng Chúa, ánh nến sáng rực Thánh đường, luồng khói màu xanh của nhang cuộn tròn bốc lên vòm cao.  Chàng cúi đầu cầu kinh.  Mấy vị cha trong nhà thờ sợ điếng người, không dám đứng trên bàn thờ nữa. 

Bỗng nhiên có tiếng lao xao bên ngoài Thánh đường, và đám quan cận thần tay cầm kiếm, đầu đội mũ lông, dương khiên sắt sáng loáng bước vào. ‘Tên mơ mộng với những mộng mơ đâu?’ bọn chúng gào to.  ‘Tên vua ăn mặc như kẻ ăn mày đâu? Thằng nhãi con làm ô nhục vương quốc đâu?  Chúng ta phải khử nó bởi vì nó không xứng đáng cai trị chúng ta.’

Chàng vua trẻ vẫn cúi đầu cầu kinh, và khi cầu kinh xong, chàng đứng dậy, quay lại nhìn đám cận thần với đôi mắt buồn vời vợi.  

Lạ thay!  Một luồng ánh sáng luồn qua cửa sổ đến bao quanh chàng, làm thành chiếc áo choàng đẹp hơn cả chiếc áo đã từng làm chàng mê mẩn.  Cây gậy chăn cừu của chàng bỗng trổ những đóa lily trắng hơn cả ngọc.  Vòng dây đội đầu cũng nở rộ những đóa hồng, màu đỏ thắm hơn cả đá rubi.  Hoa lili thì trắng hơn ngọc, cánh hoa sáng như bạc.  Hoa hồng đỏ hơn đá rubi, lá của hoa có lấp lánh ánh vàng.


Chàng đứng đó trong y phục của Vua, cánh cửa Thánh đường rộng mở, và từ chiếc bình pha lê đựng Thánh thể tỏa ra một tia ánh sáng lộng lẫy, huyền bí.  Chàng đứng đó trong y phục của vua.  Hào quang của Thượng Đế tràn ngập Thánh đường, tượng các vị Thánh đặt trong hốc tường dường như muốn di chuyển.  Trong chiếc áo choàng tuyệt đẹp, chàng Vua trẻ đứng trước toàn dân, đại hồ cầm ngân vang khúc nhạc, tiếng kèn vút cao, nhóm ca đoàn cất tiếng hát.  

Toàn dân phủ phục, đám cận thần tra kiếm vào bao và cúi đầu tỏ lòng tôn kính.  Vị Cha cố mặt tái xanh, tay run cầm cập, cất lời, ‘Tôi không đủ tư cách làm lễ đăng quang cho Ngài.’ Nói xong, ông cũng quỳ xuống phủ phục. 

Chàng Vua trẻ rời bàn thờ bước xuống, băng ngang qua đám đông để trở về nhà.  Không người nào dám ngước lên nhìn chàng, bởi lẽ khuôn mặt chàng là khuôn mặt của thiên thần.





No comments: