Aug 24, 2012

ĐỌC "LỤC BÁT TÙY BÚT" – DOÃN QUỐC VINH - Tâm Thanh



ĐỌC "LỤC BÁT TÙY BÚT" – DOÃN QUỐC VINH
Nói "đọc" không, chưa đủ, phải xem, phải ngắm mới thưởng thức hết được giá trị nghệ thuật trong việc phác họa bìa, dàn trang, chọn giấy in, vẽ phụ bản... Tất cả là một cuốn sách tuyệt mỹ, xứng đáng là tập thơ của một họa sĩ.  
Doãn Quốc Vinh viết trong Thơ Vô Đề  "bởi là... / con Bố cháu Ông.../ đâm ra xớn xác đèo bồng văn chương". Vô là vào, mà cũng là không. Lấy thơ không đề để vào đề, một trò chơi chữ kiểu ông ngoại đấy. Anh Vinh là cháu ngoại nhà thơ Tú Mỡ. Ta cũng biết Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu (1900-1976) là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn, nhà thơ trào phúng nổi bật thời tiền chiến, với tác phẩm tiêu biểu, Giòng nước ngược. Ta cũng biết tác giả là con trai giáo sư nhà văn Doãn Quốc Sỹ  (1923 - ), người sáng lập tờ báo Sáng Tạo. Tờ báo sống không lâu, nhưng gây chấn động một thập niên và những người chủ trương nó (Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên v.v.) đã tạo nên một phong trào. Bản thân các vị ấy tiếp tục một dòng văn chương được giới sinh viên và trí thức nô nức đón nhận và bắt chước – một bắt chước không-bắt-chước –  sáng tạo.  DQV sinh năm 1961, nằm trong thế hệ trẻ nhất chịu ảnh hưởng Sáng Tạo. Lục bát tùy bút là trái chín của một gia đình nghệ sĩ và một thời sáng tạo. "Bố Sỹ" của Vinh thân mật ví thơ Vinh với thơ haiku Nhật Bản. Rất đúng. Nhưng có lẽ vì khiêm tốn, ông không nói con mình đã tân tạo lục bát khi anh viết tùy bút bằng lục bát. Vâng, lục bát tuyệt vời để tả cảnh, tả tình, và Nguyễn Du đã chứng tỏ nó cũng tuyệt vời để viết tiểu thuyết. Nhưng DQV là người thành công trong việc dùng lục bát viết tùy bút. Lấy lục bát mà viết tùy bút là một việc liều lĩnh, vậy mà anh "đâm ra" thành công, nhờ anh khám phá ra có một liên hệ mật thiết giữa hình thức và nội dung – bản chất của tùy bút là ngẫu hứng; ưu thế của lục bát là gợi cảm. Tôi vừa nhận ra sự kết hợp kỳ diệu này khi đọc kỹ lời anh bộc lộ ở bìa sau "... thơ này / là quạt tri âm / xòe ra... che miệng / thì thầm nhau nghe" . Về hình tượng ta chỉ thấy một cô gái e ấp cầm quạt che miệng nhỏ to lời tình tự. Nhưng bên dưới hình tượng mộc mạc và hơi dí dỏm ấy là một tuyên ngôn (cho tôi cường điệu một chút) về thơ của DQV. Đại khái ta hình dung lời nhà thơ, "Hồn tôi như cánh quạt, lúc khép nó ấp ủ bao điều bí nhiệm, bao luồng gió lành, chờ đón người biết nghe (tri âm). Và hôm nay gặp người tri kỷ tôi mở cõi lòng (xòe ra). Lúc tôi mở miệng ra cũng là lúc thơ tôi thành vô ngôn (che miệng). Bạn tri kỷ ơi, bạn chỉ nghe tiếng lòng tôi (thì thầm) mà thôi; lên cao giọng một chút sẽ có nhiễu âm."
Gần 200 bài thơ trong LBTB phải được đọc theo kiểu xòe ra – khép vào như thế.
Trong chương một – Lục bát nhà, anh Vinh cho ta thấy đầy đủ nhà cửa như là nơi ở của gia đình, với ông bà, cha mẹ, chú bác, vợ con, anh chị em (mà từng người anh ân cần đề tặng). Nhưng nhà thơ Vinh chỉ mượn cớ để cho ta thấy những điều thâm sâu hơn – và đây mới là chính yếu – nhà là trung tâm tình yêu, nơi đi về, chốn tâm hồn yên nghỉ, điểm nghỉ chân sau cơn mỏi mệt hay vấp ngã. Nhà ở mọi nơi khi tâm định, trí an. "Xẩy chân... / đổ gục giữa đời / buông tay... / ngã chúi về nơi tình nhà". Khi nhìn lại ngôi nhà xưa ở Sài Gòn, chắc anh không thể không xúc động, nhưng vượt qua cảm tính để chọn một thái độ thiền:
"nhẹ nhàng mỗi sáng
bước ra...
 ngóng mong chiều tối thềm nhà
bước vô..."

Dù ráng đọc 14 chữ trên bằng con mắt bàng quan, tôi không thể nén sự xúc động khi nghĩ tới ngôi nhà thơ ấu của chính mình, và ngôi nhà mà về chiều mình ngóng mong bước vào. Tôi cố ý chép lại câu thơ đúng theo cách xuống dòng trong nguyên bản, để bạn đọc thấy thêm kỹ thuật làm mới lục bát của DQV. Anh không ngắt câu vì lập dị hay tùy tiện. Anh xuống dòng như hai bàn chân của thiền giả từ tốn bước xuống bậc thềm, và khoan thai bước lên, theo nhạc điệu tâm linh. Ngôi nhà gạch dường như biến thành một cõi không gian không có thời gian, ngôi nhà đạt đạo.
Chương hai – Lục bát Đôi bờ nói về cảnh tha hương. "Đêm nằm xuôi hướng biển Đông / buồn nghe sóng vỗ vào lòng đại dương" (Thay lời tựa, cho chương này). Bờ bên này, anh nghe sóng vỗ vào tâm hồn trống trải như đại dương của mình. Đến con chim bên Texas cũng hót rất lạ, nó không hót tiếng Mỹ! "Quê nhà ở tận nơi nao / chim trời hót giọng ca dao gọi bầy". Buồn man mác, nhưng lạc quan – anh cho rằng bề ngoài con chim gọi đàn chứ thực ra là gọi anh, nếu không, sao nó lại nói tiếng mẹ của anh – ca dao, lục bát.  Ta hỏi tại sao DQV yêu ca dao lục bát thế? Anh trả lời, gián tiếp, "Dăm ba câu hát ngọt ngào / đôi giòng lục bát lao xao ru hời / mà sao đến tận cuối đời... / con đi chẳng hết những lời mẹ ru".  Ca dao chứa nhạc, màu, khôn ngoan, đạo nghĩa và nhất là hơi hám mẹ, bởi vậy lục tuần rồi mà anh đi chưa hết lời mẹ ru, nên anh vẫn còn nhỏ dại, thơ ngây, thẩn thơ và thơ thẩn. Bố Sỹ, khi nêu tính haiku trong thơ DQV có trích nhiều câu đặc trưng. Tôi muốn thêm một trong những câu hai-cú tuyệt vời nhất của anh Vinh là "Ơ kìa... xuân đến chẳng hay? / hiên nhà rợp nắng, rớt đầy hạt kinh" (Nắng sớm mùa xuân). Nó tuyệt vời ở tính đột ngột.
Chương ba – Lục bát Đời, vô đề bằng "quẩn quanh áo ấm, cơm đầy... / cũng may còn được chút này... / chữ Trinh!" (Nói chuyện Kiều với chú Nguyễn Đình Toàn). Những bài nòng cốt trong chương này (Sạch, Vào Thiền, Thảnh thơi, Mồng một Tết khai bút...) đều thể hiện tâm ý thoát tục của anh. Thoát tục nhưng vẫn yêu đời và yêu người. "Ai ơi... / yêu lấy nhau hoài / Tử Sinh... / thoáng chốc nào ngoài trăm năm". Triết lý sống đơn giản này, coi vậy mà rất nhiều người, kể cả người lớn tuổi và hội viên lão thành của nhiều tổ chức, chưa hiểu giùm. Đó là những giá trị căn bản.  Đối với những tiểu tiết, phụ thuộc khác, anh rất phóng khoáng.  Cái phóng khoáng của Trần Tế Xương, "Trời sinh cái thói hào hoa / thế nên... / mỗi tối về nhà cũng quên!"  Có lúc cũng nghi ngờ, cái nghi ngờ phòng thân của Trang Tử, "này con... / muốn sống ở đời /mạng che con chớ để rơi ngoài đường" (Này con. Dặn dò con cháu Doãn Gia).
Chương bốn – Lục bát Tình. Gia đình và bạn hữu ai cũng biết DQV là họa sĩ trước khi làm thơ (ít nhất căn cứ trên các ghi chú ngày tháng trên thơ của anh). Vào đề chương này, anh trình bày lý do (và một lần nữa tôi chép nguyên hình thức xuống dòng của tác giả, để độc giả thấy DQV ngắt câu rất khéo, tựa như họa sĩ đổi "gam" màu):
Vẽ cho cõi mộng...
thênh thang
Thơ cho yên ả...
mênh mang cõi tình

Cõi tình của anh không hẳn là nơi ngự trị của một người con gái, mà có khi là một thành phố, "Đông về... / ấm lửa lại vừa nhớ em!" (Thơ cho em Hà Nội), "bao năm lạc bước phiêu bồng / về đây ôm Huế vào lòng / Huế ơi" (Thơ cho em Huế), và "xa em rày nắng mai mưa / giàn dưa, bông bí, đọt dừa... / kém vui" (Thơ cho em Sài Gòn). Tuy nhiên một thành phố thiếu một bóng hồng có dính dáng tơ trời với ta, nó rất kềnh càng, khó có thể gọi bằng em và không thể ôm vào lòng được. Tôi nói chơi vậy thôi, đối với DQV, hình như mối tình lớn là cái đẹp. Anh đã nửa đời đi tìm cái đẹp, "nhân duyên đâu đó trong mơ / nửa đời mê mải ngóng chờ từng đêm / chong đèn thức vẽ bên thềm / tìm nhau chẳng đặng, say mềm ánh trăng".
Lục bát tùy bút là kết quả của sự sáng tạo thông minh và cố gắng canh tân thơ lục bát. Bí quyết thành công của anh không mới lạ gì, hai ngàn năm trước Plutarch đã nói "Họa là thơ câm. Thơ là tranh nói".  DQV may mắn hơn nhiều người làm thơ khác vì anh là họa sĩ. Bài thơ nào của anh cũng tràn ngập hình ảnh và màu sắc.  Đọc ý mới qua lục bát, tôi có cảm giác hả hê được uống một ly rượu lâu năm. 

Tâm Thanh

No comments: