Jan 11, 2023

THƠ VĂN - VĂN THƠ - MAI THẢO - THANH TÂM TUYỀN - Doãn Cẩm Liên

 


Sau cuộc di cư năm 1954 vào đến miền Nam Việt Nam, người Hà Nội đã đóng góp cho nền văn chương – nghệ thuật – văn học Việt Nam ngày càng rực rỡ. Những phong thái cởi mở, tự do và phóng khoáng của văn sĩ và thơ sĩ có được hẳn là do từ miền Nam đất mới, màu mỡ và đầy tình người. Mảnh đất giàu chất liệu đã nuôi dưỡng và kích thích các văn nghệ sĩ tuôn trào nguồn thơ văn. Trong các nhà văn nhà thơ mang nhiều tính sáng tạo mà khiến độc giả miền Nam rùng mình mà khoái chí thưởng thức đó là nhà văn Mai Thảo và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.

Với Mai Thảo, ông dùng ngòi bút mà “rải hạt vàng”, vàng tung tóe trong các truyện Đêm Giã Từ Hà Nội, Tháng Giêng Cỏ Non… tâm tình người tha hương nhớ quê nhà.

Đọc Mai Thảo để thấy danh từ, tĩnh từ, động từ ông sử dụng ngoạn mục như thế nào. Và những dấu phẩy, dấu chấm, xuống hàng là một kỹ xảo để hạt vàng thêm lóng lánh. Nghệ thuật rải những hạt vàng được Trần Hoài Thư nhắc đến trong Thư Quán Bản Thảo số tháng 9 – năm 2022 “Góp Nhặt Hạt Vàng – Mai Thảo” 

Mai Thảo còn có biệt tài viết văn xuôi để rồi từ đó độc giả có thể biến nó thành thơ. Chỉ cần sử dụng kỹ thuật xuống hàng, ngắt câu một đoạn văn mà Mai Thảo đã viết là ta có một đoạn thơ “tự do” đẹp. 

Vậy nhé, chúng ta thử làm thơ bằng một đoạn văn trong Đêm Giã Từ Hà Nội, được xuất bản năm 1955. Chỉ cần sử dụng kỹ thuật xuống hàng, ngắt câu là có một bài thơ rồi đấy.

Thư Gửi Người Bên Kia Vĩ Tuyến

“… Nhưng mà tôi vẫn tin. Tin tưởng hết lòng. Tin tưởng vĩnh viễn. Tin anh còn là anh, nghĩa là còn là con người. Như tôi đã tin ở sự sống, tin ở tự do, tin ở hôm nay. Tin ở trái đất, ở thế hệ này sẽ nhìn thấy những vĩ tuyến những biên thùy gục đổ, và con người chống giữ nổi cơn Hồng Thủy, sẽ hái được những nhánh lúa vàng của thế hệ ngày mai.”

Nhưng mà tôi vẫn tin 

Tin tưởng hết lòng

Tin tưởng vĩnh viễn

Tin anh còn là anh 

Nghĩa là còn là con người 

Như tôi đã tin ở sự sống

Tin ở tự do 

Tin ở hôm nay

Tin ở trái đất

Ở thế hệ này sẽ nhìn thấy những vĩ tuyến những biên thùy gục đổ 

Và con người chống giữ nổi cơn Hồng Thủy 

Sẽ hái được những nhánh lúa vàng của thế hệ ngày mai.

Nắm vàng từ bàn tay Mai Thảo đưa vào tay chúng ta. Và mở lòng bàn tay ra, có phải ta thấy ánh vàng sáng lóe? Vẫn trong truyện ngắn Thư Gửi Người Bên Kia Vĩ Tuyến:

“Tôi tin ở sức mạnh của bàn tay. Tôi còn tin ở sức mạnh của tư tưởng. Anh cố gắng nhé! Đứng thật thẳng. Sống thật mãnh liệt. Sống còn với Tự Do. Đi ngược lại triều Hồng Thủy…”

Tôi tin ở sức mạnh của bàn tay

Tôi còn tin ở sức mạnh của tư tưởng

Anh cố gắng nhé! 

Đứng thật thẳng. 

Sống thật mãnh liệt. 

Sống còn với Tự Do. 

Đi ngược lại triều Hồng Thủy

Đêm Giã Từ Hà Nội

“Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia.”

Giờ này anh còn là người của Hà Nội

Thở nhịp thở của Hà Nội

Đau niềm đau của Hà Nội 

Mà Hà Nội hình như đã ở bên kia.

Mai Thảo đã viết văn xuôi êm ái như thơ, mượt mà như hát. Chả trách người đọc muốn bật lên tiếng ngâm nga như ngâm một lời thơ.

Và rồi chúng ta thử làm một hành động ngược lại với thơ Thanh Tâm Tuyền. Thử nối những câu thơ làm thành một đoản văn xuôi. Và đọc lại nhé, xem thành quả chúng ta có được như thế nào?

Nhịp Ba

Thanh Tâm Tuyền tặng Doãn Quốc Sỹ

 “Ngực anh thủng lỗ đạn tròn

Lưỡi lê thấu phổi

Tim còn nhảy đập

Nhịp ba nhịp ba nhịp ba

Tình yêu, tự do mãi mãi

Anh về ngồi dưới vườn nhà

Cây liền kết trái 

Hoa rụng tơi tơi ủ xác

Anh chạy nhịp hai qua cách trở

Mắt bừng

Thống nhất tự do

Ngoài xa thành phố

Bánh xe lăn nhịp ba

Áo màu xanh hớn hở

Nhát búa gõ

Long máy quay

Cửa nhà thi nhau lớn

Nhịp ba nhịp ba nhịp ba

Tình yêu tự do mãi mãi

Sóng bồi phù sa

Ruông lúa trổ hoa

Núi cao uốn cây rừng

Nhịp ba nhịp ba nhịp ba

Tình yêu tự do mãi mãi

Đất nước ào ào vỗ nhịp

Triều biển chập chùng

Hà Nội Huế Sài Gòn

Ôm nhau nức nở

Có người cầm súng bắn vào đầu

Đạn nổ nhịp ba không chết

Anh ngồi nhỏm dậy

khỏe mạnh lạ thường

Bước ai thánh thót

Nhịp ba

Tình yêu

Tự do

mãi mãi

Tình yêu tự do mãi mãi

Tình yêu tự do

mãi mãi anh ơi

(Tôi không còn cô độc, 1956)”

Ngực anh thủng lỗ đạn tròn, lưỡi lê thấu phải, tim còn nhảy đập nhịp ba nhịp ba nhịp ba. Tình yêu, tự do mãi mãi. Anh về ngồi dưới vườn nhà, cây liền kết trái hoa rụng tơi tơi ủ xác. Anh chạy nhịp hai qua cách trở. Mắt bừng thống nhất tự do. Ngoài xa thành phố, bánh xe lăn nhịp ba. Áo màu xanh hớn hở. Nhát búa gõ, long máy quay, cửa nhà thi nhau lớn. Nhịp ba nhịp ba nhịp ba.

Tình yêu tự do mãi mãi.

Sóng bồi phù sa, ruộng lúa trổ hoa, núi cao uốn cây rừng. Nhịp ba nhịp ba nhịp ba.

Tình yêu tự do mãi mãi. 

Đất nước ào ào vỗ nhịp, triều biển chập chùng. Hà Nội Huế Sài Gòn ôm nhau nức nở. Có người cầm súng bắn vào đầu. Đạn nổ nhịp ba không chết. Anh ngồi nhỏm dậy, khỏe mạnh lạ thường. Bước ai thánh thót Nhịp Ba.

Tình yêu tự do mãi mãi

Tình yêu tự do mãi mãi

Tình yêu tự do mãi mãi anh ơi

(Tôi không còn cô độc, 1956)

Hãy đọc lại toàn bài, có phải chúng mình có một đoản văn hay không ạ? Có phải chúng ta đang thấy một bức tranh sống động, một Sài Gòn Huế Hà Nội ồn ào náo nhiệt với những vui mừng thống nhất. Người người, nhà nhà tưng bừng niềm vui lớn, xã hội phồn thịnh, đất nước lớn mạnh? Thanh Tâm Tuyền đã bơm vào lòng độc giả một niềm hạnh phúc dâng trào.

Xin một lần nữa, biến đổi thơ thành văn:

Lệ Đá Xanh

“Tôi biết những người khóc lẻ loi 

không nguôi một phút

những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình 

em biết không 

lệ là những viên đá xanh 

tim rũ rượi

đôi khi anh muốn tin 

ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể

mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em 

đến ngày cuối

đôi khi anh muốn tin

ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng Đế 

Mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em

nguồn sữa mật khởi đầu

đôi khi anh muốn tin

ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết

mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em

vòng ân ái

đôi khi anh muốn tin

ôi những người khóc lẻ loi một mình

đau đớn lệ là những viên đá xanh 

tim rũ rượi.”

Tôi biết những người khóc lẻ loi, không nguôi một phút. Những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình. Em biết không? Lệ là những viên đá xanh. Tim rũ rượi!

Đôi khi anh muốn tin, ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể. Mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em đến ngày cuối. Đôi khi anh muốn tin, ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng Đế. Mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em, nguồn sữa mật khởi đầu. Đôi khi anh muốn tin, ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết. Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em. Vòng ân ái.

Đôi khi anh muốn tin. Ôi những người khóc lẻ loi một mình. Đau đớn lệ là những viên đá xanh. 

Tim rũ rượi!

Tuyệt!

Một trời mới rạng ngời tình yêu, bầu trời và trăng sao. Mắt em là ngàn sao lấp lánh. Môi em sánh như nguồn sữa mật. Ơi hỡi người yêu văn thơ, lấy gì để mà so sánh bằng được, hơn thua để mà thương nhớ… Năm 1956, Thanh Tâm Tuyền mang vào thế giới văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam một luồng gió mới. Gió mới thổi bay luật lệ, khuôn sáo của thơ Đường, thơ lục bát, thất ngôn bát cú, vần điệu… để cho ra một thể loại thơ “tự do”. Tự do trong chữ dùng, để chuyên chở ý thơ bay bổng lên. Không gì ngăn cản được tự do để thơ vút bay cao.

Đọc đoản văn Mai Thảo, đọc bài thơ Thanh Tâm Tuyền mà ta sao cứ lẫn lộn như đọc từ một nguồn sáng tác? Cứ như là một bút pháp làm ra? Lộn ngược văn thành thơ và lộn thơ để thành văn. Ta cảm giác như thế nào khi đọc Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền? Hình như là Thơ – Văn Văn – Thơ cả hai nó quện vào nhau. Muốn nói là Thơ – Văn cũng được, mà kêu bằng Văn – Thơ cũng không sai! 

California, ngày 9 tháng 1 – 2023

Doãn Cẩm Liên

Ghi chú: Viết theo gợi ý của anh Trần Hoài Thư.

No comments: