Nov 21, 2025

BỐ ƠI, ĐI LĂNG QUANG THÔI! - Doãn Quốc Hưng

Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này.

Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại. Cuộc đời xoay vòng là vậy…

Hành trình “lăng quăng” của hai bố con trong một hai năm nay chỉ khoảng ba dặm, do sức khỏe của bố xuống nhiều. Chủ yếu là quanh block đường Dale-Chapman-Magnolia-Lampson. Hồi còn minh mẫn, bố đặt tên block đường này là “Đợi- Chờ- Mặc Nó Líu Lo- Lắm Sự” (theo cách đọc trại sang tiếng Việt tên của bốn con đường). Bố tỏ ra thích thú với việc đặt tên Việt “tiếu lâm” cho những con đường mà mình đi qua. Đường Katella có tên Việt là “Kể Tên Lạ”; Bushard là “Bút Sa Gà Chết”…

Hành trình ba dặm có vẻ ngắn, kéo dài khoảng nửa giờ, nhưng đủ để bố ôn lại những điều vẫn nhớ ở tuổi 103. Tai gần như điếc, mắt chỉ còn thấy lờ mờ, những điều hai bố con nói với nhau là những câu chuyện lập đi lập lại trong nhiều năm qua. Những câu chuyện có liên quan đến một đời người kéo dài hơn một thế kỷ; sinh ra lớn lên ở một ngôi làng ngoại thành Hà Nội; di cư vào Nam để viết văn, dạy học; cho đến khi nhắm mắt lìa đời ở miền Nam Cali.

Bố vẫn nhớ làng Cót có cây si đầu làng chứ không phải cây đa. Đi từ đầu làng vào sẽ qua miếu Chợ, miếu Chùa, mộ Vua, miếu Cả, ao Cậy, ao Cầu… Đầu làng có con sông Tô Lịch; nay đã thành ruộng rau muống, nên bố đọc lại 4 câu thơ:

Sông xưa giờ đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò… 

Rồi từ làng Cót, bố liên tưởng đến làng Láng của mẹ, cách nhau chỉ khoảng hai cây số, nơi có ngôi nhà với khu vườn bao quanh bốn mặt của cụ nhạc phụ Tú Mỡ có tám người con:

Năm trai ba gái tám tên

Trung, Hiền, Thảo, Dũng, Hùng, Chuyên, Vỹ, Cường

“…Cả tám người đều ra người thiên cổ cả rồi…Bố con mình không ai nằm mơ thấy mẹ; chắc là mẹ về với cõi Phật rồi. Người sống hiền đức cả đời thì phải về cõi Phật thôi…” Bố vẫn nói vậy… 

Nhắc đến Tú Mỡ, bố nhắc Việt Nam có hai nhà thơ tên Hiếu: Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, là người Sơn Tây, nơi có núi Tản Viên, sông Đà Giang, cho nên lấy bút hiệu là Tản Đà. Rồi bố đọc một lèo bài Thề Non Nước từ câu đầu “Nước non nặng một lời thề…” cho đến câu kết “…Non non nước nước không nguôi lời thề…”, và kết luận rằng bài thơ có  “…vũ trụ nhân sinh quan trùng trùng duyên khởi…” 

Bố nhớ ngày xưa học trung học ở Hà Nội có thầy là cụ Vũ Đình Liên, nhà thơ nổi tiếng với bài thơ bất hủ Ông Đồ Già. Bố đọc dõng dạc bài thơ, ngân nga dài giọng ở hai câu cuối: “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ…” 

Bạn bè văn nghệ thì nhóm Sáng Tạo là nhất. “Thất tinh nay chỉ còn nhị tinh” là Trần Thanh Hiệp và Doãn Quốc Sỹ. Năm người ra thiên cổ là Mai Thảo, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế. Trong đó bác Mai Thảo là tếu nhất. “Ngài” có bài thơ bất hủ là:

Thế giới có triệu điều không hiểu

Càng hiểu không ra lúc cuối đời

Chẳng sao khi đã nằm trong đất

Nhìn ở sao trời sẽ hiểu thôi!

Bố cười đắc chí: “Bây giờ thì Ngài đã hiểu rồi!...”


Bố rất thích bài thơ ghép chung với chú Nguyễn Đình Toàn. Bốn câu đầu của chú Toàn:

Lúa Thủ Thiêm ngọn chìm ngọn nổi

Gió xa lộ lúc thổi lúc ngưng

Gặp nhau tay bắt mặt mừng

Vui thì vui vậy biết chừng nào xa…

 

Sáu câu sau là của bố:

Đỉnh trời vằng vặc gương nga

Long lanh soi tỏ lòng ta lòng mình

Gương trong mình lại soi mình

Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du

Nẻo đời gió bụi kỳ khu

Biết ai còn mất tình thu võ vàng.

Sáu câu này được in lại trong thư cảm tạ trong tang lễ của bố; là tâm tình biệt ly với người đi xa, như bố giải thích: “…thoạt đầu là lạc quan vì tin rằng người đi xa nhưng tình thì vẫn luôn còn mãi; nhưng nói vậy chỉ là để dối lòng thôi, chứ kẻ ở vẫn cứ man mác buồn…”

Bạn bè văn nghệ bố cũng thường nhắc đến Nhã Ca, Trần Dạ Từ, hỏi tôi giờ đang ở đâu. Khi tôi trả lời Thụy Điển, bố gật gù “Bắc Âu quanh năm tuyết phủ trắng xóa…”

Bố rất tâm đắc với nghề đi dạy học của mình. Dạy ở ba trường đại học là Sư Phạm, Văn Khoa, Vạn Hạnh, nên học trò đông vô số kể. “…Lương nhà giáo thì thanh đạm thôi, nhưng tình thầy trò là vô giá…”

Bố vẫn thuộc lòng một số bài ca dao. Khi đọc hết bài:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen….

…Giúp em quan tám tiền cheo

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Bố dí dỏm kết luận: “Giúp thế anh là chú rể rồi còn gì! Cô gái sẽ nguýt và mắng là nỡm! Cà chớn!...”

Đi tù 12 năm, nhưng không nghe bố kể sống trong tù cực khổ ra sao, chỉ thường nói: “… Bố ở tù cộng sản hai lần, một lần bốn năm, một lần tám năm. Nghiệp nặng đã trả xong, bây giờ vui với con cháu…”

Hai bố con thường ghé vào chùa Quán Thế Âm trên đường Magnolia. Một chị làm công quả ở chùa biết ông già 100 tuổi hầu như ngày nào cũng vào chùa lễ Phật, phục lăn. Thấy bố đến, chị đon đả ra chào, rồi giới thiệu với những Phật tử viếng chùa, nói rằng hình ảnh hai bố con dắt nhau đi chùa làm chị rất ngưỡng mộ. Khi lễ Quan Âm, thường thì tôi đọc trước, bố đọc theo: “Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát”. Nhưng có những ngày như trong tiềm thức vọng về, bố niệm dõng dạc theo cách riêng của mình: “Nam Mô tầm thinh cứu khổ cứu nạn linh cảm Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát; Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát; Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”.

Gần 10 năm, hành trình “đi lăng quăng” và câu chuyện chỉ có thế. Không thấy phiền muộn, chỉ toàn niềm vui. Nó có thay đổi theo sức khỏe yếu dần của bố. Khi bắt đầu quên nhiều hơn, bố nghe tôi “nhắc tuồng” vài chữ đầu trong mỗi câu chuyện để nói theo. Vài tuần trước khi mất, khi bố nắm tay tôi để bước đi, tôi cảm giác được sức tựa ngày càng nặng hơn.

Một tuần trước khi mất, một chiều tôi đến để rủ “đi lăng quăng”, bố vẫn nằm trong giường. Tôi ngồi cạnh hỏi to: “Bố ơi, đi lăng quăng không?” Bố vẫn nhắm mắt, trả lời “Không!” Hỏi ba lần đều trả lời như vậy, điều chưa bao giờ xảy ra với tác giả của truyện “Đi”. Tôi biết ngày đó đang tới gần. 

Dạo gần đây thỉnh thoảng bố ôm bụng, nhăn mặt, nhưng hỏi thì bảo không đau. Thứ Sáu 10 tháng 10, y tá tới nhà khám, không định ra bệnh, đề nghị đưa vào nhà thương để chẩn đoán. Trưa Thứ Bảy gọi 911 đưa vào bệnh viện West Anaheim. Sau khi CT scan, bác sĩ cho biết có một khối u ở ruột già có thể làm nghẽn đường tiêu hóa, hỏi gia đình có muốn chữa trị không? Các con đều đồng ý là không chữa trị, chỉ cần giảm đau. Chủ Nhật bắt đầu tiêm morphine. Thứ Hai bố bắt đầu thở nặng kiểu người hấp hối, gia đình dự định mời các sư cô chùa Đại Bi đến vào sáng hôm sau để đọc kinh cầu an. 9:55 phút sáng Thứ Ba, tôi vẫn còn nắm tay bố niệm Phật, thấy hơi thở của bố đã nhẹ lắm rồi. Sau đó, tôi đi xuống cổng bệnh viện để đón hai sư cô đến lúc 10:00. Khi đi thang máy lên phòng ở lầu ba, sư cô còn hỏi “Hôm nay là cầu an hay cầu siêu?” Tôi trả lời “cầu an” vì bố còn sống. Lên đến giường bệnh thì bố đã ra đi lúc 10:05 ngày 14 tháng 10. Lễ cầu siêu diễn ra ngắn gọn ngay sau đó.

Lúc đó trời Nam Cali bỗng dưng đổ cơn mưa như để gột sạch đường trần thế… 

Tôi nhớ vào tối Chủ Nhật ngồi bên giường bệnh, nắm tay bố để niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Thỉnh thoảng, tôi ghé vào tai bố nói rằng: “Bố sống đời hiền đức, nay bố ra đi bình an, bố nhớ theo ánh sáng của Phật Di Đà…” Tay tôi nắm tay phải của bố để hộ niệm. Chỉ ít phút sau, tự nhiên bố đưa tay trái sang nắm chặt tay của tôi. Giống như cái nắm tay lúc “đi lăng quăng”. Cái nắm tay lúc cận tử thật chân tình. Tôi cảm nhận được sự bình an truyền sang cho mình…

Trăm năm một đời người của bố kết thúc nhẹ nhàng như thế. Sống cả đời lo cho con, cuối đời chẳng làm phiền con cháu, lúc ra đi cũng vậy…

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết lời ca “…Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”

Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong Rong Khúc về hành trình sau cái chết của mình “…Ta vứt sau ta những nẻo đường trần, Ta vút bay theo những nẻo đường tiên…”

Bố tôi thì thích “đi lăng quăng” lúc cuối đời. Đi chỉ để mà đi, thong dong, an nhiên, tự tại. Sau một ngày làm việc, “đi lăng quăng” không phải là bổn phận của con đối với bố, mà là những giây phút tôi tìm thấy an lạc cho chính mình.

“Đi lăng quăng” là cách nói giản dị, khôi hài kiểu của bố. Nhưng cả cuộc đời của bố là một con đường thẳng tắp, thanh thản đi qua một thế kỷ bể dâu của dân tộc. Tôi nhớ lại lời bố nói về mẹ: “Người sống hiền đức cả đời thì phải về cõi Phật thôi…”

Tạm biệt bố. Ở một thế giới nào đó, rồi hai bố con sẽ lại có dịp “đi lăng quăng” với nhau… 

Doãn Hưng

14/11/2025

Nov 20, 2025

ÁY NÁY - Tâm tình của cháu Ngọc Tồ vớ Bác Trai


Hồi còn nhỏ cháu thường đạp xe sang nhà bác Sỹ trai và bác Sỹ gái ở 338/60B hẻm Thành Thái để sinh hoạt với các anh chị nhiều hơn là ở nhà 183 Lý Thái Tổ của mình. Hai bác và các anh chị đặt cho cháu cái tên rất đúng với cá tính của mình: Ngọc tồ, phá phách nghịch ngợm như con trai, quần áo lúc nào cũng....không mấy sạch sẽ. 

Đến nay 62 tuổi, cái tên cúng cơm này vẫn còn chính xác với cháu. Chị Khánh vừa viết một bài rất cảm động nhắc lại những kỷ niệm thời thơ ấu, để tưởng niệm bác Sỹ trai vừa qua đời. Chị kể kỷ niệm cháu Ngọc tồ núp trong xe Daihatsu  của bác để đi bơi lậu ở một club thể thao của Pháp trong Saigon (Cercle). Bác Sỹ nhắm mắt làm ngơ cho đứa cháu được vào tập bơi để rồi sau này nó có tí vốn bơi lap swim cả tiếng không biết mệt. 

Chị Khánh đặt giả thuyết: không biết bác có bị áy náy lương tâm về việc này không. Cháu Ngọc tồ hưởng lợi swim thì đoán là chắc có, tuy bác không nói ra. Sau này đọc nhiều truyện của bác, cháu thấy rõ nét cái áy náy, cái tự vấn mình, cái không hoàn hảo rất người của bác. 

Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn Cò Đùm (hoàn tất tháng Tám, 1974) tất nhiên là một tổng hợp của nhiều người thật, việc thật, trong kinh nghiệm từng trải nhiều thập niên của bác. Cháu Ngọc tồ, cũng theo nghiệp giáo của bác và ba mẹ cháu, vô cùng cảm động trước cái trăn trở của ông Giáo khi đã có ý coi thường người nông dân ít học làm việc chích thuốc dạo (trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp) sẵn sàng đi theo ông Giáo về nhà chích thuốc cứu sống bà Giáo: “Thực là khôi hài cho tâm trạng ‘trí thức’ của tôi lúc đó – và vẫn đầy rẫy, đầy rẫy bây giờ - cho rằng việc tôi đến dựng Cò Đùm dậy vào lúc 1 giờ sáng là chính tôi đã ban danh dự cho Cò Đùm”.

Vậy mà những ngón tay cáu bẩn đồng ruộng của Cò Đùm đã “nhay nhay khua tìm cho đúng veine” và chích thuốc trụ sinh cứu sống bà Giáo. Ông Giáo mang ơn và hứa sẽ nhận mang đứa con trai trưởng của Cò Đùm vào nam và nuôi cho nó ăn học nên người. Nhưng ông Giáo đã thất hứa với Cò Đùm, không cho con Cò Đùm đi theo cùng gia đình vào nam, và giải thích một cách hoàn toàn hợp lý: “Tôi giải thích cho Cò Đùm hiểu cảnh băng qua vùng giới tuyến, khoảng đai trắng dù ngắn đến mấy, vẫn là đi dây với tử thần, một anh lê dương hứng chí bất tử lẩy cò, một quân nhân chợt bất tử cảm thấy lòng yêu Bác, yêu Đảng dạt dào cũng lẩy cò. Bởi vậy khi vào tề, thường gia đình càng thu gọn càng hay. Gia đình tôi đã đủ người già với trẻ dại, nếu lại lịu địu thêm thằng con trưởng của Cò Đùm, nhỡ có thế nào, nhỡ có mệnh hệ nào, cả hai bên cùng ân hận.”  Lý do ông Giáo đưa ra hoàn toàn hợp lý! Nhưng cái áy náy lương tâm thì không lý luận trắng đen được!

Nếu không áy náy với lương tâm thì làm sao sau khi ông Giáo và gia đình đã vào trong nam an toàn, ông Giáo đã hằng tuần “chăm chăm đợi đúng đến ngày đó, giờ đó theo dõi chương trình ‘Phỏng Vấn Người Tìm Tự Do’ để mong tìm thấy một ‘chàng thanh niên có chiếc răng nanh khểnh và mang máng một bên mắt híp, còn mặc nguyên bộ bà ba đen ngoài bưng và chân còn giữ nguyên đôi dép Bình Trị Thiên’ con trai trưởng của Cò Đùm?! 

Cái áy náy này có lẽ đã theo đuổi ông Giáo vào đến trong nam, và có lẽ sâu thẳm trong lương tâm, vì người con trai của Cò Đùm chắc đã bị kẹt lại ở miền bắc với tương lai mù mịt bấp bênh, như Cò Đùm đã lo lắng.

Cái đẹp và cái nhân bản trong việc cầm bút, cầm phấn và cách sống của bác Sỹ đã được nhiều người ghi nhận; điều này không có gì mới. Theo cháu, điều ít ai nói đến là bác rất chân thành với cái không hoàn hảo và áy náy lương tâm của giới trí thức (thí dụ như ông Giáo trong truyện Cò Đùm) và chia sẻ nó với các độc giả, trong đó có cháu Ngọc tồ của bác. 

Chị Khánh cứ lo là viết sau khi bác mất một thời gian sẽ nặng về lý trí và thiếu con tim. Cháu Ngọc tồ thì không thấy như vậy. Nhìn từ một góc cạnh khác về một tác phẩm ít độc giả biết đến như Cò Đùm làm cháu thấy nhớ và gần bác hơn, vì những cái không hoàn hảo và áy náy lương tâm, từ nhỏ đến lớn, rất cần được ghi nhận. Mình nhận biết nó, để mình can đảm hơn trong việc tự vấn chính mình và tu tập. Để gìn vàng giữ ngọc cho nhau đó mà. 

Cháu/em Ngọc tồ

(Trên xe lửa Amtrak, 22 tháng 11, 2025)


Nov 18, 2025

A COLLECTION OF HAIKUS DEDICATED TO ÔNG NỘI - Doãn Đan Anh

 A collection of haikus (three-line Japanese poem) dedicated to Doãn Quốc Sỹ — my Ông Nội — reflecting memories from the time I lived with him.

 

Ông Nội’s favorite drink *

Candy soaked in milk

Vibrant colors peek through white

Normal day turned sweet.


Ông Nội’s hobby

Worn-out chains rattle

Round wheels embrace the pavement

Adventure awaits.


Ông Nội’s passion

Faint sounds of scribbles

Pen dances across paper

Fleeting thoughts in ink.


By Doãn Đan Anh (con Vịt)


* Ông Nội had a charming habit: whenever he wanted to satisfy his sweet tooth, he
would drop a lollipop into a cold glass of milk and sip it throughout the day. As the day
went on, the lollipop slowly dissolved, infusing the milk with its sweetness.





HÓA THÂN CỦA BỐ

 



Nov 7, 2025

THE LIGHTHOUSE - cháu ngoại Nguyễn Đình Thảo Chi / NGỌN HẢI ĐĂNG - con rể Nguyễn Đình Hiếu





He never asked to lead the way,

Or sought the sun, or asked for praise.

He simply stood through night and day,

A steady light in all our haze.


When storms would rise and waves would roar,

We would look to him, that constant shore. 

No words required, just calm and true,

His quiet strength would see us through. 


Now his lamp has left the hill,

But in our hearts it’s shinning still. 

A gentle beam that guides us home,

No matter where our ships may roam. 


From far and wide, we came that day,

Each carried home by grief and grace.

He gathered us close, one final time

To love, laugh, and say goodbye. 


He gave us peace inside the storm,

A light to keep our family warm.

The sea still moves, the wind still spins,

But we all know where home has been.


ThaoChi Nguyen 

11/07/2025



Bố Hiếu dịch sang Việt ngữ bài thơ của con gái:

N G Ọ N   H Ả I   Đ Ă N G

Ông chưa từng muốn làm người dẫn đường,

Không tìm danh lợi, chẳng cầu tán dương.

Ông đứng yên đó ngày đêm suốt buổi,

Làm ngọn đèn chiếu sáng trong đêm mù sương.


Khi bão tố nổi lên, sóng lớn thét gào,

Chúng con đi tìm ông – bến bờ lao xao.

Không cần lời nói, chỉ bình tâm và chân thật,

Sức mạnh lặng thầm giúp chúng con đến cùng nhau.


Giờ ngọn hải đăng đã rời bỏ ngọn đồi,

Nhưng trong tim chúng con vẫn chiếu sáng ngời.

Tia sáng dịu dàng dẫn đường đưa lối,

Dù thuyền chúng con trôi dạt muôn nơi.


Từ muôn phương, chúng con về đây,

Mang theo ân tình và nỗi sầu mây.

Ông gom chúng con lại, là lần cuối,

Để yêu thương và cười, rồi nói lời chia tay.


Ông trao bình yên giữa những cơn bão táp,

Gây lò sưởi giữ hơi ấm gia đình.

Cho dù biển vẫn xoay vòng dậy sóng,

Nhưng chúng con biết đâu là mái nhà của mình.

 



BỐ - Doãn Kim Khánh

Ngày Bố ra đi, những bài viết về Bố bùng nổ trên mạng. Thứ nữ của Bố (tôi), đọc nhanh qua từng bài viết, và lượm được hai điều nổi bật mà người ngoài nào cũng nhận xét và không ai chối từ: chữ nghĩa và đức độ của Bố.

Riêng tám đứa con ông ở nhà thì dường như coi nhẹ mọi thứ mà người ngoài cho là “lớn chuyện”. Đứa nào cũng nói về Bố, gọi Bố bằng một giọng tương đương với chữ B hoa trong văn viết. Tuy nhiên chẳng đứa nào phân tích xem Bố mình có gì đặc biệt hơn Bố (hay Ba) của tụi bạn mình. Có lẽ tại vì Bố có thói quen sống thực với con người và lý tưởng của mình mà không cần phân tích hay khen người này, chê người nọ. Sự đời tới đâu Bố lo tới đó. Hai đứa con gái đầu bắt đầu đi học lúc tiền bạc gia đình rủng rỉnh thì ông cho học trường Tây. Đến đứa thứ ba, Bố cảm thấy không kham nổi tiền học kiểu đó bèn lùa nó vào một trường Việt nơi cô ruột của nó dạy. Năm đứa còn lại đều đầu quân vào trường Sư Phạm Thực Hành, nơi các giáo sinh học trò Bố dạy thực tập rồi sau đó thi vào một trường trung học ngang sức học của từng đứa. Bố coi sự học là quan trọng nhưng không gây áp lực, đòi các con phải đứng nhất lớp. Bố biết đồng tiền cần thiết trong cuộc sống nhưng không chờ đợi các con phải giàu có. Về hai mặt này, các con đều nghe lời Bố, học hạng khá là vui rồi và chẳng có đứa nào giàu.  

Thuở còn nhỏ, gia đình tôi chơi thân với gia đình ông chú cùng họ Doãn. Chú là giám đốc uy quyền trong một hãng sửa xe hơi, về nhà chú cũng uy quyền y như vậy. Các con của chú thấy chú về thì lấm lét, tìm cách lẩn tránh. Đứa nào cũng mong ba mình được như Bác (Bố Sỹ của các anh chị). Bố xuề xòa, khi ngồi vào bàn ăn chẳng đòi tí nề nếp nào. Nhiều khi Bố vào ngồi bàn thì các con đã bắt đầu ăn rồi. Món nào bị các con chê thì Bố gắp hào hứng nhất. Thuở ấy có vài thanh niên là các em của một người bạn của cô tôi hay đến chơi. Chúng tôi gọi các vị ấy là “chú”. Gia đình chúng tôi có lệ mời bất kỳ ai đến chơi vào giờ cơm cùng ăn. Mẹ tôi nói “thêm bát thêm đũa ấy mà.” Những lúc ấy Bố khai mạc bữa ăn bằng câu “Nhậu đi các chú!” Có một chú cứ cười hoài “Chẳng có tí rượu nào mà ông cứ giục “Nhậu đi!” Vậy mà hôm nay Bố ra đi, bao nhiêu người vẫn cứ ca tụng “chữ nghĩa” của ông. Đã thế, một trong những “chú” ấy đã trở thành anh rể lớn thân thương của chúng tôi.

Thuở nhỏ, ở bậc trung học và đại học, tôi đi đâu cũng được giới thiệu là “con gái ông Sỹ”. Những lúc ấy tôi ngượng lắm vì sợ mình “con nhà tông” mà chẳng giống lông, cũng chẳng giống cánh! Ngượng nhất là không ít lần người được giới thiệu ngơ ngác hỏi “Ông Sỹ là ai?” Lúc còn bé xíu thì quả là tôi không biết ông Sỹ là ai, chỉ biết chữ “Bố” quen thuộc và bây giờ già rồi vẫn nhớ những buổi sáng sớm được Bố ôm vào lòng và hỏi “Sáng nay con ăn gì? Ăn bánh sữa nhé?” Khoảng thời gian đó cũng là lúc Bố hay ôm các con nhỏ và “tán” mẹ một cách kín đáo bằng câu nói “Bố phược con, Bố phược mẹ”. Kín đáo vì phục phải nói trại thành phược và con được nhắc trước mẹ.

Lớn chút nữa, tôi quen thuộc với dáng cao nghễu nghện của Bố, tương phản với Mẹ thấp người. Trong các hình xưa lúc nào Mẹ cũng khép nép bên Bố. Tám con của Bố Mẹ phát triển thể chất theo hai hướng trái nghịch như vậy. Trưởng nữ và một thứ nam cao vượt các bạn cùng lớp. Hai thứ nữ (chị Ba và Út Gái) thì tụt dốc, ngắn đòn thảm hại. Bốn đứa còn lại làng nhàng bậc trung. Gia đình chúng tôi là một khu vườn nhiều hình dạng, lố nhố, vậy mà các con vẫn được Bố gọi là “8 bồ tát” của Bố. Khi các “bồ tát” ở tuổi chướng ngược thì Bố thiên vị mấy đứa con gái ra mặt và chỉ “trừng mắt” mấy thằng con trai. Hậu quả là có những lần Bố bị Mẹ “cáo buộc” mà không cãi được tội “không biết dạy con, lúc nào cũng đợi chúng tự giác”. Nhớ nhất là lần Bố quá giang thằng trưởng nam trên chiếc xe mobilette của nó. Về nhà, Bố nghiêm mặt nói “Bố ngồi sau mới thấy mày tóc dài quá!” Vài ngày sau, tôi thấy tóc nó vẫn dài và Mẹ vẫn làu bàu bài ca “không biết dạy con” vì rõ ràng là nó không “tự giác”. 

Tuy nhiên không ai chối cãi điều Bố là người của gia đình. Bố mua thẻ hội viên cho cả nhà ở Cercle Sportif Saigonais (gọi nôm na là “Xẹc”) và thường xuyên chất toàn ban lau nhau lên chiếc Daihatsu để chúng nó vào bơi trong khi ông chơi tennis một mình trong phòng tennis đơn). Tám con tám thẻ, với Ông nữa là chín. Thỉnh thoảng có đứa em họ của chúng tôi ham vui xin đi theo, ông cho liền. Khi lái xe qua chỗ kiểm soát, ông hiên ngang trình chín thẻ cho mười hành khách. Đứa em họ lúc ấy kín đáo ngồi sụp xuống sàn xe. Sau khi đi “thoát”, con bé vui mừng khoái trá. Nó vào hồ bơi vẫy vùng với đôi giò đã bắt đầu dài thậm thượt, còn tôi thì quên không để ý xem ông Bố rất đàng hoàng của mình có áy náy vì một việc làm không đàng hoàng lắm hay không.

Ở nhà Bố nhiều “khuyết điểm” là thế đấy, nhưng ra đường Bố có vẻ phong độ hơn vì ăn mặc lúc nào cũng chỉnh tề và đặc biệt chịu khó dấp eau de cologne lên tóc. Các chị học trò của Bố đến nhà chơi kể rằng ở ngoài sân trường các chị hay lén đi đằng sau ông thầy để hít mùi nước hoa. Trong những năm hoạt động hăng say nhất với tay phấn tay bút, Bố giao thiệp rộng với giới nhà giáo và nhà văn. Mẹ ở nhà đóng vai người nội trợ đảm đang. Tôi đặc biệt nhớ một bác đồng nghiệp thân thiết của Bố mà chúng tôi gọi là Bác Côn, vốn là vợ của luật sư Trần Văn Tuyên, thuộc đẳng cấp có “máu mặt” ở Sài Gòn thời đó. Nhà của bác là một biệt thự nguy nga có vườn rộng nằm ngay trên đường Hồng Thập Tự. Bác Côn dáng người phương phi, nét đẹp đài các và quần áo lúc nào cũng lụa là. Thỉnh thoảng bác qua nhà bạn Sỹ chơi, một căn nhà tầm thường trong một hẻm của người lao động. Gặp vợ bạn (mẹ tôi) thì bác thẳng thắn góp ý “Chị bỏ ngay cái quần đen với cái áo lụp xụp này đi.” Câu đề nghị có lẽ hợp ý mẹ vì mẹ cũng gốc gác “con nhà”, chỉ vì hoàn cảnh đông con mà phải lam lũ. Thế là mẹ tự may cho mình một số đồ bộ mặc nhà. Tôi không quen thuộc lắm hình ảnh mới này của mẹ, nhưng được cái mẹ cương quyết “cách tân” và bây giờ nghĩ lại tôi phục cá tính mạnh mẽ của Mẹ. Nhưng tôi vẫn thắc mắc không biết Bố thích hình ảnh nào của mẹ hơn. Có lẽ Bố không quan tâm vì Bố biết rất rõ rằng giá trị của Mẹ nằm ở chỗ khác. Bố đã từng tuyên bố với bạn bè: “Đáng lẽ tôi phải ký tên bà xã vào tất cả những tác phẩm của mình vì nếu không có bà ấy lo việc nhà thì làm sao tôi có được sự nghiệp văn chương này!”

Bao nhiêu năm trời tôi lớn lên trong một gia đình có bố đôn hậu, mẹ đảm đang và một bầy chị em lao nhao khi ầm ĩ, khi vui vẻ. Tất cả cứ tưởng như hạnh phúc này là chuyện tự nhiên mà có. Cho đến một ngày nọ, là con ông Sỹ bỗng trở thành chuyện đáng nói. Lần ấy tôi quen qua thư từ một anh ở Mỹ, bây giờ là “Bồ Tèo Hưng” hơn 20 năm trời của tôi. Thuở đó máy computer chưa có dấu tiếng Việt. Tôi viết thư vẫn ký tên là “Doan Khanh”. Khi anh gửi tôi một món quà qua bưu điện, đề tên người nhận “Đoàn Khánh” thì ông đưa thư không cho nhận vì không đúng tên. Tôi phải ra phường xin được xác nhận là ở địa chỉ đó chỉ có người tên Doãn Thị Kim Khánh chứ không có Đoàn Khánh nào hết. Khi biết chuyện, anh Hưng ngạc nhiên hỏi “Ủa, em họ Doãn thì có họ với ông Doãn Quốc Sỹ không?” Tôi giở giọng bỡn cợt mà chị em tôi hay dùng trong hoàn cảnh này: “Có họ sơ sơ, gọi Bố xưng con.”  Lúc ấy anh Hưng thiếu điều nhảy tưng tưng vì anh là độc giả của Ông đã lâu và vẫn thường nói nhờ đọc sách ông anh mới biết thế nào là thực chất Cộng Sản.

Nhưng lại có một thuở ở quê nhà, quen biết với ông Sỹ trở thành họa nhiều hơn vinh. Đó là những ngày sau 1975, khi tôi bắt buộc phải ngồi trong giảng đường trường Đại Học Sư Phạm, nghe từ trên bục “các chú” chửi các “bồi bút” miền Nam, trong đó tên Bố được nhắc hàng đầu. Bôi xấu các “bồi bút” thì “các chú” làm tương đối nhuyễn nhừ, nhưng bôi xấu Bố Sỹ thì họ sẽ phải loay hoay hơn. Tôi ngồi trong hội trường cố tình lắng nghe họ “kể tội” Ông thì được bảo rằng Ông Sỹ có tội biện minh cho một chế độ xấu xa bằng nếp sống đàng hoàng của mình. Thế đấy! Lúc ấy chưa có chiến dịch bố ráp các nhà văn nên Bố còn ở nhà. Tôi về kể lại lập luận ấy thì Bố thản nhiên xúi “Con cứ coi như mình đang xem một vở hài kịch.”

Thế rồi đến một ngày hài biến thành bi! Công an đến bắt Ông đi vào giờ ăn trưa. Khi ấy có một bạn văn nghệ - nhà thơ Thế Viên - tình cờ đến chơi được Ông mời ở lại ăn trưa. Thế là “các chú” tiện thể bắt cả hai: một con cá bự và một con nhạn là đà. Hàng xóm chứng kiến “Ông Giáo” bị Công An bắt đi với tội danh “phản quốc” và “âm mưu lật đổ chính quyền” mà nước mắt lưng tròng. Trong khi đó chúng tôi phải đối phó với kho tàng sách khổng lồ Bố để lại. Đa số đều là sách tặng có chữ ký của tác giả. Có những người bạn ham đọc sách, mỗi lần qua nhà tôi là say sưa lục tủ sách bày ngay ngoài phòng khách để mượn về đọc. Vậy mà sau khi Bố bị bắt đi, tôi soạn một số sách quý, định đem gửi tại nhà một bạn học thân nhất thì bị anh của bạn từ chối thẳng thừng. Anh xua những quyển sách như xua tà!

Lần đó Bố bị bắt đi biệt tích, không có một tin tức gì về cho gia đình. Ở nhà mẹ con hoang mang, không dám tưởng tượng gì hết. Đó chỉ là khởi điểm. Sau đó là những năm tháng tù đầy từ Chí Hòa ở Sài Gòn đến trại lao động ở đồi núi Pleiku, đến trại tù ở Long Khánh. Ngục tù tối đen chỉ làm ông thêm tỏa sáng. Theo nhà phê bình Nguyễn Quốc Bảo thì “người ta tưởng bắt được Doãn Quốc Sỹ, nào ngờ chỉ bắt được một thân xác, còn linh hồn ông thì đã ung dung tự tại từ lâu”. Vì Ông đã hóa giải nhà tù bằng tâm thiền. 

Thực ra, lần ấy Bố không bị bắt một mình mà với “đồng bọn”; tất cả cùng chia sẻ danh hiệu khá lẫy lừng mà báo chí Cộng Sản đã “ưu ái” tặng: “những tên Biệt Kích Cầm Bút”. “Các chú” cuối cùng xoay xở đưa được toàn ban “Biệt Kích” ra cho Tòa Án Nhân Dân xử. Trong phiên tòa ấy, Bố được “cất nhắc” lên vị trí “lãnh đạo”, nhưng bác Hoàng Hải Thủy đã khẳng khái bác bỏ điều này vì “văn nghệ sĩ chúng tôi không hoạt động theo chỉ đạo của ai hết!” Lần ấy “hiệp sĩ” cứu Bố và “đồng bọn” là Hội Ân Xá Quốc Tế. Trước đó thầy Nhất Hạnh và cô Cao Ngọc Phượng đã đích thân sang Sydney, gặp trưởng nữ và Út trai của Bố để chỉ dẫn cách biểu tình bất bạo động. Thuở ấy người bên trong kẻ bên ngoài liên lạc nhau bằng điện thoại của Bưu Điện trung ương, và toàn dùng mật hiệu bí hiểm, đầy không khí Z 28! Mãi sau chúng tôi mới nhận được hình đoàn biểu tình ở Sydney ngồi bất bạo động trước Tòa Đại Sứ Việt Cộng, trong đó có hình con gái của anh chị Hai (cháu ngoại của Bố) ngồi với biểu ngữ “I want to hold my grandpa.” Biện pháp này hữu hiệu. Một ngày đẹp trời, chúng tôi nhận được thư của một ông chú đảng viên làm trong ngành Ngoại Giao (chú là chồng của cô em kế Bố, ở lại ngoài Bắc sau 1954).  Chú báo tin vui “Bố các cháu sắp về” nhưng kèm lời dặn hóm hỉnh “Đừng leo lên mái nhà mà reo ầm ĩ!”

Không đứa cháu nào bảo đảm chuyện không “ầm ĩ”. Chúng tôi đã “ầm ĩ” từ những ngày đói ăn, đói tự do sau năm 75 và suốt thập niên 80.  Thời thế đưa đẩy khiến chúng tôi có dịp “đầu quân” dưới trướng của một “tên” dân vận “ác ôn” tên Trần Đại Lộc mà cả bọn tôn vinh làm “Anh Hai”. Tám đứa con của “Biệt Kích” Sỹ còn lại sáu vì trưởng nữ và anh rể Cả cùng thằng Út Giai đã cao chạy xa bay trên một chiếc tàu vượt biên. Thực ra, nhóm này còn có sứ mạng cao cả là cứu đói cả nhà ở lại bằng những thùng quà từ Sydney. Anh Hai Lộc thuở ấy còn độc thân nên cũng tung trời y như đàn em lêu lổng dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có những đứa trong nhóm trẻ tuổi bắt buộc phải lăn lộn vào thị trường chợ đen để sinh tổn. Tất cả đều phát triển kiểu con ve của La Fontaine, tức là “kêu ve ve”, không phải suốt mùa hè mà là suốt mọi năm tháng. Thương nhớ Bố, nhưng chúng tôi không khóc thầm mà kêu ve ve. Trong nhóm có những con ve hát to và hát hay, nhỏ nhất là cục cưng Út của ông Sỹ và lớn nhất là anh Cả, bác sĩ Trương Minh Cường. Ban ngày ông bác sĩ đi “sờ voi” (tức là khám bệnh), ban tối sống kiếp con ve vì ông bác sĩ hát giọng rất trầm ấm. Có hai đứa bạn của thằng trưởng nam, nhập bọn đầu tiên bằng giọng hát hay và tấm lòng yêu văn nghệ, sau đó đoạt luôn danh hiệu “con nuôi” của Bố và “cạnh tranh” kịch liệt với tám con ruột. Ngoài ra còn có anh Hai lãnh đạo, biết truyền cho bầy em nuôi tinh thần hát cho qua ngày tháng và còn biết sáng tác nhạc nữa. Mỗi năm có biết bao dịp để toàn ban ngứa miệng hát chơi: Tết, Giáng Sinh, Trung Thu, sinh nhật của từng đứa, đầy tháng và đầy năm của những em bé mới ra đời. Có những lúc ve ve vui quá, chúng tôi lại chạnh lòng nhớ đến ông Bố điềm đạm nghiêm trang của mình. Tuy nhiên, thay vì bảo nhau vào nề nếp hơn, cả bọn lại quyết tâm “cho Bố vào nề nếp” khi Bố về.

Bố quả nhiên vào nề nếp khi về mái nhà xưa, tức là Bố hiền hòa ngoan ngoãn tham dự những buổi văn nghệ mà Bố đánh giá là “bỏ túi”. Anh Hai (ngoài luồng vì Bố có đẻ ra anh đâu) “đút lót” Bố bằng một bài hát mà anh đặt tên là Sáng Nay Mùa Xuân, và các con đã gọi nôm na là bài “Bố về”. Ngày đầu tiên “gánh hát” của anh Hai ra mắt Bố, Út Hương hát bài Bố Về, có cô của chúng tôi ngồi nghe, khóc thút thít. Cô là người được Bố dắt vào Nam, gả chồng để gia đình chúng tôi lại có một chi nhánh với nhiều con “ve” khác, chất lượng đều cao. Tuy nhiên, Bố dù có lịch sự vào nề nếp nhưng đồng thời cũng nâng cấp nề nếp. Bố đưa sáng kiến thành lập “đại học bỏ túi”, khuyến khích tất cả con cháu thuyết trình về bất kỳ đề tài nào mình quan tâm. Giá trị nhất là anh Hai Lộc mở lớp dạy sáng tác nhạc. Các em tham gia đều phải nhận assignment là ít nhất một sáng tác của riêng mình. Nhờ đó mà đứa nào cũng là tác giả của ít nhất một bài hát. Nếu hên quá, bài ấy hay thì coi đó là masterpiece của mình. Có đứa được đà, sáng tác tiếp, ra sản phẩm không hay thì dở. Bố nghe cười xòa, còn tôi thì lúc nào cũng có một lập trường: ra được sản phẩm là hay rồi.

Chuyện về Bố tới đó đã ly kỳ nhưng vẫn còn hồi sau. Trong hồi sau, Bố thu thập thêm kinh nghiệm tù tội của hồi trước, lại tiếp tục bị ngòi bút thôi thúc. Theo dõi Bố miệt mài đánh máy những dòng tư tưởng tuôn trào, tôi thường nhớ đến hai câu thơ của Hàn Mạc Tử: 

“Thơ chưa ra khỏi bút, giọt mực đã rụng rời;

Lòng tôi chưa kịp nói, giấy đã toát mồ hôi.”

Hai câu thơ đầy kịch tính này mô tả đúng tính chất tuôn trào của lần phản kháng thứ hai của Bố. Lần đó công an gõ cửa vào giữa đêm bằng tiếng gõ thô bạo, thiếu nhân tính rất đặc thù của công an. Vẫn cảnh căn nhà bị lục tung, đổ đạc sách vở ngổn ngang khắp sàn, thêm cảnh thằng em trốn bộ đội núp dưới mái nhà phía sau, trong khi một tên công an xục xạo trần nhà phía trước. Công an vừa bỏ căn gác xuống nhà là thằng em rời chỗ trốn, leo qua lan can nhà hàng xóm và lỉnh ra khỏi xóm. Sau đó nó được một người bạn của Bố cho nhập vào một nhóm vượt biên, lấy chỗ mà họ đã để dành cho Bố. Mãi về sau nó là đứa được bạn bè Bố yểm trợ, bảo lãnh những người còn lại trong gia đình qua Mỹ.

Nói về Bố thì vô tận. Điều này đúng với cả người ngoài lẫn người trong gia đình. Ngày đám tang Bố, số người đến dự rất đông. Nhiều khách đến hỏi tôi “Chị Thanh đâu?” Tôi tìm không ra chị. Chị Thanh kể có người hỏi chị “Khánh đâu?” Chị cũng không tìm ra tôi. Có bạn văn của Bố, có học trò Bố, có bà con xa gần, có người đến tự giới thiệu đơn giản “Tôi chỉ là độc giả” Có một bạn học đến bảo “Khánh ra phía bên trái cửa vào, tụi bạn mình đợi Khánh ở đó”. Có những học trò biết cô chứ có biết Bố của cô là ai, vậy mà cũng đến. Hôm ấy tôi mới thực sự cảm nhận được sự yêu mến của mọi người đối với Bố và hiểu thấu đáo câu “tang gia bối rối.” 

Không hiểu sao vị thầy đọc điếu văn trước lễ nhập quan Bố lại nhiều lần thốt lên hai chữ “Bố ơi”. Hai chữ ấy như một nhát dao vào tim tôi và lập tức làm tôi nước mắt tuôn trào.

Chữ “Bố” đặc biệt với tất cả tám con cùng các dâu rể của Bố. Chữ Bố gợi bao hình ảnh êm ái và sóng gió trong quãng đời phong phú của Bố. Một người bạn thân gọi điện thoại cho tôi ngay tối hôm tang lễ. Chị nói “Sẽ lâu lắm mới có một người như ông Sỹ trên cõi đời này.” Tôi nhận ngay câu khen ngợi, không tìm cách khiêm cung. 

Riêng các con, từ khi còn quây quần bên Bố, đều đã tự chê mình không “lượm” được cây bút của Bố. Tuy nhiên, trưởng nữ có lượm được lòng yêu chữ nghĩa nên vẫn miệt mài làm việc với sách vở trong thư viện Sydney. Trưởng nam lượm lòng yêu âm nhạc nên nhanh nhẹn làm một bài hát cuối cùng cho Bố và Út trai là đứa thừa hưởng khả năng phân tích âm nhạc của Bố từ thuở lọt lòng. Thứ nữ kế tôi thì yên tâm là đã làm caregiver lo cơm nước cho Bố đằng đẵng bao năm trời. và Út gái thì cũng yên tâm vì đã cương quyết “spoil” Bố bằng cách rủ Bố “đi chơi” triền miên. Hai thứ nam có đứa làm thơ (một việc mà Bố chỉ “dọa” chứ chưa bao giờ làm), đứa làm báo, cũng là bầu bạn với chữ nghĩa, theo đúng ý Bố. 

Riêng tôi thì đã xin viên phấn của Bố từ lâu, hôm nay xin mượn cây bút của Bố để viết những dòng này, trong khi thầm gọi “Bố ơi!” Tôi biết mình sẽ gọi “Bố ơi” cho đến cuối đời mình.

Doãn Kim Khánh

Nov 4, 2025



SỐNG AN - Doãn Tư Liên

Cô Tư tự đặt vấn đề “Sống an” cho chính mình vì cô nhận thấy cuộc sống sao thường không an!

Cô Tư nhìn lại chính mình, rõ là một sự kéo dài từ chuyện này rồi đến chuyện kia, buồn rồi đến vui, vui buồn không ngừng nghỉ. Chuyện vui đến cũng lo vì không biết sau vui là gì? Chuyện buồn đến thì hẳn nhiên cô phải lo lắng và phải lo giải quyết nó. Hoặc một sự kiện không vui không buồn đến, nó cũng làm cô phải suy nghĩ một chút. Buồn cũng lo, mà vui cũng lo thế thì tâm cô Tư lúc nào cũng lo. Rõ là sự an bình trong tâm cô Tư hiếm khi xảy ra!

Nghĩ thêm, sâu một chút nữa, cô Tư còn nhìn thấy nếu cùng một vấn đề, như đối với người khác chuyện đó là bình thường, mà sao với cô thì nó lại buồn!? Và cũng vẫn cùng một câu chuyện nếu nó xảy ra ở thời điểm này là rắc rối to, mà lệch đi một tí thì nó lại khác hoặc ở khoảng không gian nào khác cô sẽ chấp nhận nó dễ dàng hơn. Cô nhận thấy và nghĩ đến nó.

Cô Tư thích thú lắm với “công án” này vì nó giúp cô nhìn vào cái an - bất an, cái vui - buồn cho thật thấu đáo và từ đó cô sẽ có giải pháp. Cô nhớ đâu đó câu chuyện nhà Thiền: chuyện ngài Huệ Khả thưa với Bồ Đề Đạt Ma “Tâm con bất an xin thầy giúp con.” Câu trả lời của Bồ Đề Đạt Ma “Mang cái tâm bất an ra đây ta an cho.” Huệ Khả quay lại tìm cái tâm bất an mà tìm hoài không ra! Hình như tâm nó đã tự “an” khi ngài nhìn lại rồi thì phải! 

Thế đấy! 

Việc “nhìn ngược trở vào” tâm để tìm sự bất an thì vô hình chung nỗi bất an của lòng mình nó nhạt dần và biến mất.

Chuyện Cô Tư cũng vậy, cô vừa trải qua một tháng đầy biến động. Nào là trả nhà, kiếm nhà và dọn nhà; rồi đến chuyện chăm bố đau, bố vô nhà thương và cuối cùng bố mất. Chuyện bố thì cô Tư có các chị em chung lưng giải quyết, cô không cần phải lo nhiều. Chỉ còn việc nhà thì chỉ riêng mình cô và chồng phải tự lo. Có lúc trong đầu cô rối beng  lên khiến cô mất ngủ. Căn nhà dọn đến vẫn chưa sẵn sàng mà hạn trả nhà tới nơi rồi!

Cô Tư bèn nghĩ ngay: Cái cuối cùng tệ nhất là gì? Không kiếm ra nhà thì làm sao?

Cô Tư đặt câu hỏi và tự trả lời. Câu trả lời cho tình huống tệ nhất được trả lời ra sao, cô có kham được không với lời giải ấy? Kể từ đó cô cảm thấy yên tâm hơn với tình huống xấu nhất nếu xảy đến. Kết quả đầu óc cô trống và có chút an ổn ở trong tâm.

Với Bố, cô Tư hay đùa và nói rằng “Cô có hai người đàn ông trong đời, một là ông già, hai là ông xã tuy chưa già lắm, chiếm gần hết cái đầu cô!” Nói thế có nghĩa là hai nhân vật này đôi lúc chiếm khá nhiều không gian trong cô.

Sự việc “Bố đau” khiến tâm cô không được bình thường. Cô nhói tim khi nhìn thấy Bố giật mình, khuôn mặt nhíu lại, tay ôm bụng. Thế nhưng khi hỏi “Bố đau như thế nào?” “Đau ra làm sao?” thì câu trả lời muôn thuở “Không!”

Suốt cả tháng trời, cô để ý thấy những cơn đau của bố ngày càng gần hơn. Mấy chị em trong nhà đều nhận thấy vậy, nên cô em dâu là bác sĩ thời còn ở VN quyết định “Phải cho bố đi nhà thương để họ kiểm tra.” Thằng em thứ 5 “Kết quả chỉ để mình biết thôi, sẽ không có chữa chạy.”

Cái quyết định “không chữa chạy” cũng là quyết định của bác sĩ trong nhà thương khi khám phá ra 1 khối u 5cm trong ruột già của ông: “Comfort measuring only”. Cô Tư xem đây là điểm xấu nhất xảy ra cho “người đàn ông thứ nhất” của cô ở thời điểm ông đã đạt số tuổi 103. Cô chấp nhận ngay nó vì không ngoài dự đoán của cô và của cả nhà. 

Cái gì mà nó đã được nhận diện và được chấp nhận bởi cái nhận xét và phán quyết bởi chính mình thì sẽ làm thành khởi điểm cho cái tâm an. – Cô Tư nhận ra vậy.

Thế là từ đấy, khởi từ quyết định của bác sĩ, cô Tư chỉ chú tâm vào việc ôm bố, nắm tay bố, nhắn nhủ bố và niệm Phật cùng ông trên giường của bệnh viện. 

- “Bố nhớ nha, bố đã làm bao nhiêu việc lành thiện trên cõi đời này rồi thì nay bố cứ ra đi. Nhớ đi theo ánh sáng trắng. Ánh sáng này sẽ dắt bố đi về cõi lành thiện và gặp lại Mẹ. Nếu chưa thì bố chờ chị Hai, trưởng Nam, thằng Sáu, chị Ba và Út về nha.”

Ông đã nghe lời và chờ… cho đến khi thằng Trưởng bay qua, đứng bên cạnh ông, nói: “Bố, con T. đây!”

Ông đi…

Ông đã ra đi một cách nhẹ nhàng và an lạc. Khuôn mặt phẳng phiu không một chút đau đớn.

Tâm cô Tư cũng an vì thấy bố an. Bố ban phát “cái an” cho các con các cháu của ông. Cả đời Ông toàn là “an” “an lạc” “an nhiên” “an lành” “an vui” nằm sẵn trong tâm của ông. Mười hai năm rưỡi tù đầy cộng sản, ông cũng sống một cách an nhiên trong tù. Ông ban phát “an” cho những xung quanh, cho người canh gác tù canh ông và các bạn đồng tù. Ông không thù hận họ vì ông đã xem chuyện tù đày này là nghiệp mà ông phải trả. Trả xong nghiệp thì thảnh thơi và an vui trở về đời sống thường với vợ con và các bạn thân yêu. 

Ông là thế đấy!

Cô Tư ráng học theo Ông nhiều lắm, nay cũng nhận ra sống “an” đó là một cuộc sống nhẹ nhàng và cũng thật tròn đầy. Cô áp dụng cái đã và đang học cách “an tâm”, nay viết ra để càng nhớ sâu hơn và lâu hơn.

Cô không mong gì hơn thế nữa khi mình đạt được chỉ một phần mười “cái an” của Bố cô!

California, ngày 3 tháng 12 – 2025

Doãn Tư Liên