Aug 14, 2020

THƠ THIỀN - ĐẠO HẠNH THIỀN SƯ



GIÁO TRÒ

Trình làng trình chạ,
Thượng hạ tây đông.
Tư cảnh hoà trung,
Nghe tôi giáo trống.
Trướng không phong động,
Cũng bởi trống tôi.
Làng đã vào ngồi,
Tôi xin diễn tích ...

Từ Đạo Hạnh 


Bài này do ông Hà Văn Cầu phát hiện trong cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh, in năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ 4 (1501) đời Lê Hiển Tông. Đây là một bài thơ nôm mộc mạc, được dùng làm lời giáo đầu cho các buổi diễn trò thời xưa. Trong các vở chèo dân gian, phần nhiều đều thấy có in bài này. Vì bản in Hý phường phả lục hiện đã bị thất lạc, nên chưa thể xác định chắc chắn tác giả cùng thời điểm xuất hiện của bài thơ, thậm chí cả Hý phường phả lục cũng còn đáng nghi vấn, cần xác minh lại.


2. 

  有空  
作有塵沙有,
為空一切空。
有空如水月,
勿著有空空。  

HỮU KHÔNG

Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.

Từ Đạo Hạnh 

CÓ VÀ KHÔNG

Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì ?

Huyền Quang tam tổ dịch 

Có thì muôn sự có
Không thì tất cả không
Có, không trăng đáy nước
Đừng mắc có cùng không

Thích Thanh Từ dịch 

Dịch nghĩa

Bảo là “có”, thì nhỏ nhoi như hạt bụi cũng có
Bảo là “không”, thì tất cả (thế gian) đều không
“Có” và “không” như ánh trăng dưới nước
Đừng có bám hẳn vào cái “có” cũng đừng cho cái “không” là không.


3.

偈示寂  
秋來不報雁來歸,
冷笑人間暫發悲。
為報門人休戀著,
古師幾度作今師。

KỆ THỊ TỊCH 

Thu lai bất báo nhạn lai quy,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỉ độ tác kim sư.

Từ Đạo Hạnh 

BÀI KỆ DẶN DÒ TRƯỚC LÚC MẤT 

Thu về chẳng báo nhạn theo bay,
Cười nhạt người đời uổng xót vay.
Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến,
Thầy xưa mấy lượt hoá thầy nay.

Ngô Tất Tố dịch 

Dịch nghĩa

Mùa thu về không báo tin cho chim nhạn cùng về.
Đáng cười người đời cứ nảy sinh buồn thương [trước cái chết].
Khuyên các môn đồ chớ có vì ta mà quyến luyến.
Thầy xưa đã bao nhiêu lần hoá thân làm thầy nay.


4.

失珠  
日月出岩頭,
人人盡失珠。
富人有駒子,
步行不騎駒

THẤT CHÂU

Nhật nguyệt xuất nham đầu,
Nhân nhân tận thất châu.
Phú nhân hữu câu tử,
Bộ hành bất kỵ câu.

Từ Đạo Hạnh 

MẤT HẠT CHÂU

Nhật nguyệt ló non đoài,
Người người mất hạt trai.
Như nhà giàu có ngựa,
Bỏ ngựa đi chân hoài.

Đỗ Văn Hỷ dịch 

Dịch nghĩa

Mặt trời rồi mặt trăng kế nhau mọc ở đầu núi,
[Trên cõi đời này], người nào người ấy đều đánh mất hạt ngọc của mình.
Như anh nhà giàu có con ngựa quý,
Lại đi bộ mà không cưỡi ngựa.



5.

問喬智玄  
久混凡塵未識金,
不知何處是真心。
願乘指的開方便,
了見如如斷苦尋。

VẤN KIỀU TRÍ HUYỀN 

Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim),
Bất tri hà xứ thị chân tâm.
Nguyện thuỳ chỉ đích khai phương tiện,
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm.

Từ Đạo Hạnh 

HỎI KIỀU TRÍ HUYỀN 

Lăn lóc tìm châu giữa bụi đời,
"Chân tâm" nào đã thấy tăm hơi!
Dám mong chỉ lối, giùm phương tiện,
Nhìn rõ "như như", khổ hận vơi.

Huệ Chi dịch

Dịch nghĩa:

Lăn lóc nhiều giữa cõi phàm trần mà chưa nhận rõ vàng [thau],
Chẳng biết nơi nào là chân tâm.
Mong người rủ lòng chỉ cho cái đích và mở ra phương tiện,
Để thấy rõ “như như”, khỏi phải khổ công tìm kiếm.


---

Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập I), NXB Khoa học xã hội, 1977 

https://www.thivien.net/%C4%90%E1%BA%A1o-H%E1%BA%A1nh-thi%E1%BB%81n-s%C6%B0/author-BSBICnuTvR0bVKgVuJoi3A  

No comments: