Sóc xoẹt cái là xếp màu Rubik đâu vào đấy. Cụ Sỹ xoẹt cái là ký xong mấy chục cái bookmarks. Tư Liên xoẹt cái là viết xong một đoản văn.
Em vừa viết xong đoản văn này, gửi 3 bà chị Thanh, Khánh, Trúc xem chơi. Nhớ vừa thổi vừa xem nha.
- Tư Liên
NHỮNG HẠT NGỌC CỦA PHAN LẠC PHÚC
Ví von chữ, ý và tâm của nhà văn Phan Lạc Phúc trong tất cả các tác phẩm của ông là “Những hạt ngọc” sẽ không có gì quá đáng nếu chúng ta lấy tiêu chuẩn tâm “lành thiện” làm thước đo. Ngọc không lấp lánh chói ngời, do vậy muốn khám phá vẻ đẹp của nó người ta phải nhìn kỹ, nhìn sát và phải nâng niu nó trên tay thì mới thấy được sự quý giá vô ngần này. Cái lành và cái thiện được ví như sự quí giá của hạt ngọc. Hãy đến để thấy, hãy đọc để nhận ra!
Cầm trên tay “Tuyển Tập Tạp Ghi – Phan Lạc Phúc” được in và đóng gáy “tại gia” do nhà thơ Thành Tôn thực hiện, là như đang có trên tay một “chuỗi Hạt Ngọc” vô giá. Lần giở từng trang, đọc từng dòng, hết bài này sang bài khác chỉ thấy tâm ngày càng êm ả với tình người, tình đồng đội, và lòng yêu mến nước Việt.
Nhà văn quân đội Phan Lạc Phúc, còn có bút hiệu “ký giả - Lô Răng” khi ông làm chủ bút cho mục Tạp Ghi trên Nhật báo Tiền Tuyến. Ông đã cống hiến cho độc giả một văn phong độc đáo, loại viết nhanh xuống giấy; ý văn nồng nàn đầy tình người, và chữ dùng lại rất đơn giản, rất ư là “Phan Lạc Phúc”. Nhờ thế độc giả chúng ta nhận chân ra ông có một tâm lành thiện biết dường nào. Vì ông dư biết sự việc nào cũng có hai mặt. Ông không nhìn mặt xấu của sự việc, mà mặt tốt thì được ông tô đậm thêm. Mặt tốt là để bù trừ cái xấu.
Đọc trong Tuyển Tập Tạp Ghi, độc giả thấy mối giao hảo của Phan Lạc Phúc với bạn bè văn chương – văn học – nghệ thuật là những tình cảm chân thật và ấm áp. Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Ngọc Dũng, Võ Phiến, Trần Lê Nguyễn, Như Phong và nhiều nhân vật bạn văn được ông ưu ái cho vào văn học Phan Lạc Phúc. Ca sĩ nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Phạm Duy, Cung Tiến, Thái Thanh, Duy Trác, Anh Ngọc không nằm ngoài những mẩu “Tạp Ghi” của ông. Hẳn nhiên những Tướng, Tá trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng là những mẫu chuyện không thể quên và được ghi lại trong Tạp Ghi.
Đặc biệt mối liên hệ với Thượng tọa Thanh Long, Tuyên úy Phật Giáo trong quân đội VNCH, được nâng lên tình cảm mật thiết nhất. Thân mật và thiết tha nhất khi hai vị cùng ở tù cộng sản ở Sơn La “Nước Sơn La, ma Vạn Bú”. Trong thời gian sống gần với cái chết hơn là cái sống thì Thượng tọa Thanh Long đã là cái bóng mát “đại hùng, đại lực, và đại bi” để các tù nhân khác nương theo mà sống và chờ đợi.
Qua câu chuyện Tiếng Khóc, Bánh Chưng Bánh Tét, Bạn Tù Sơn La cái bóng mát của thầy Thanh Long càng tỏa rộng, càng thơm ngát. Thơm đến độ mềm cả lòng người quản tù Thượng úy “không no” sắc máu nhất, đã “…Hình có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt của y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói: - Sau không được thế nữa nhá. Ninh tinh…” Mùi thơm của khoai lùi vụng trộm trong truyện Bạn Tù Sơn La đã bay ra khỏi trang giấy, cùng với bóng “đại hùng, đại lực, và đại bi” của Thượng tọa đã phủ chụp lên cả tâm thức của độc giả này.
Với một tâm thức an lành, Thượng tọa Thanh Long đã làm an bao nhiêu tâm thức khác khi được ở gần kề ngài. Là một ông Phật sống nên khi hành động thì ngài cũng hành động nhẹ như không, không có gì, nhưng lại là một cái gì để người đồng tù của mình chiêm nghiệm “…Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang giở thức giở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái “mũ” không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng: Anh kia đứng nại. Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửa. Anh em lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài: - Cái này là cái gì?” – Dạ… cái quần… - “Ở đâu ra?” – Vợ tôi gửi cho tôi. – “Tại sao mà anh nại đội cái quần của vợ anh…?” – Tại trời lạnh quá… mà không có mũ. – “À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì? Mai nên nàm việc…” “Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết giáp của tôi lên gặp “y ta làm việc”. Khi về NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ “không no” tuyên bố không cho anh đội cái mũ “thiếu văn hóa” ấy nữa.” Anh phải làm kiểm điểm hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh cán bộ.”…Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng: - Đừng có lo, rồi đâu có đó… Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo “Thượng tọa” của ông mà đưa cho ông Thiết giáp. – Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm… Rồi ta tính… Ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu “Thượng Tọa” của ông lấy vải may cho ông bạn Thiết giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động.”
Ông Phật sống Thượng tọa Thanh Long đã giúp các bạn đồng tù giải quyết những khó khăn như thế nào? Nhẹ như không. Bởi vì ông thấm nhuần chữ “vô thường” của nhà Phật. Tất cả các “pháp”, mọi sự việc đều có con đường đi của nó. Mà đường nó đi bao giờ cũng đúng với luật trời đất. Vì thế cho nên câu “Đừng có lo, rồi đâu có đó” mà Thượng tọa thường nói là từ ý đó. Nhưng chỉ nói thế mà ngài thiếu sự tỏa sáng tính “đại hùng, đại lực, đại bi” thì sức mấy làm được việc.
Vẫn trong Tuyển Tập Tạp Ghi, bài Tiếng Khóc, ông Phan Lạc Phúc bình về khóc cười “Người ta bảo “cười là một liều thuốc bổ” thì được khóc cũng là “một viên thuốc an thần”. “Giọt lệ tôi khóc trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 – dù là khóc một mình chăng nữa, vẫn là quyền Tự Do cuối cùng còn lại của tôi…” Cũng vẫn trong truyện Tiếng Khóc “Thượng úy “không no” giơ tay nâng bó củi của tôi lên, ước lượng nặng nhẹ rồi dùng chân gạt bó củi của tôi nằm xuống, sẵn con dao rựa trong tay y chặt băng băng vào mấy nút giây rừng. Bó củi văng ra, y lấy chân gạt những cây củi nhỏ sang bên, dùng chân dậm gãy những cành củi nhỏ mà nói rằng: “Đây là rác không phải là củi. Không đạt chỉ tiêu.” Y hầm hầm ra lệnh cho tôi phải đi ngay trong chiều hôm nay – kiếm cho đủ 0.10 mét khối củi nữa.”… “Ông bạn già Thượng tọa định đi cùng với tôi kiếm củi, nhưng Thượng úy “không no” ngăn lại.”
Tác giả kể tiếp trong Tiếng Khóc “… Tôi đến được khu suối Mường Thia thì mặt trời đã gần khuất núi. Ở đây chiều xuống rất mau… tôi chỉ còn chừng hơn 1 tiếng đồng hồ làm việc.” “Tôi tìm được một cây bằng lăng nho nhỏ; nếu hạ được cây này, sẽ thừa 0.10 mét khối.”… “Dù lòng không dạ trống, tôi cũng phải cố hạ cho xong trước khi chiều xuống.”… “Sức nặng của cây làm đứt giây leo, giây choại trên cao, cả thân cây bằng lăng rơi ùm xuống suối. Tôi há hốc miệng đứng nhìn… Suối sâu thế kia không có cách gì đi xuống. Như vậy là công lao chặt cây, chặt củi của tôi trên một tiếng đồng hồ bỗng trở thành công cốc!” “Tôi nhìn cây bằng lăng của tôi trôi dưới suối. Thân chìm dưới sâu, chỉ có ít cành lá nằm vắt lên bờ trông giống như một người chết đuối, tóc xõa trên mặt nước. Bất giác tôi nhớ tới các con tôi đang dự tính vượt biên; tôi nghĩ đến trùng trùng lớp lớp những xác người xấu số chìm dưới biển Đông hay nổi trôi trên sóng nước; không biết tôi liên tưởng ra sao mà bỗng nhiên tôi òa lên khóc. Ở đây không có ai, có một mình tôi với rừng, với suối, với những khổ đau chồng chất… Tôi khóc cho vơi đi phần nào uất ức…” “Tâm hồn tôi từ lúc khóc được đến giờ, hình như nó nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Hôm nay nếu không lấy được 0.10 mét khối củi thì hôm khác mình sẽ lấy bù. Việc gì mà lo lắng quá.”… “Tôi nắm con dao đi về tay không mà bước chân như vững vàng hơn. Vừa hết một “tay dao” , tôi thấy ông bạn tù già Thượng tọa của tôi.” “Ông bạn già mới nói: “Sợ ông về muộn, thế củi đâu?” Tôi không trả lời ông già mà khẽ nở một nụ cười. Ông bạn tù già nắm lấy tay tôi… Chúng tôi cùng bước mau về trại…”
Độc giả này và các độc giả khác có thấy chăng năng lực “từ bi” ngài Thượng tọa đã rải ra khắp nơi. Chỉ cần một câu nói, một cái nắm tay, một sự thấu hiểu mà ngài đã giải giúp cho bạn tù những ấm ức, đau khổ, cực nhọc. Thân tâm của ngài đã dư thừa an lạc, nên an lạc đã tràn ra và thấm vào những thân tâm khác đang bị thiếu thốn. Ngài đang thể hiện là Quán Thế Âm bồ tát, chỉ cần nghe tiếng kêu cầu, than khóc là có mặt để cứu người.
Đọc tiếp đến truyện Bánh Chưng Bánh Tét “… Chúng tôi bắt đầu đi vào tiết mục hết sức ly kỳ trọng đại: bóc bánh chưng ăn. Không ai dám ăn cả cái bánh chưng, chỉ dám ăn nửa cái để “chào xuân, đón Tết”… “Riêng tôi vừa bóc bánh đã xảy ra “sự cố”. Vừa mới cởi xong nút lạt, mở vài lượt lá bên trên thì từ chiếc bánh của tôi, gạo nếp đã bung ra lả tả.” “Nhìn cái bánh chưng sống nhăn sống nhở, tôi cúi mặt thở dài không biết nói năng gì. Ông bạn tù Thượng tọa, không biết vì ông có kinh nghiệm bản thân hay là vì ông thương tôi nên ông vội nói:“Ông đổi cho tôi cái bánh chưng ấy đi. Đi tù như ở đây không biết sống chết thế nào nhưng Tết đến mà ông có cái bánh chưng như vậy là điềm thật tốt: sống rồi.”
“Bây giờ mỗi khi đón Xuân, ăn bánh chưng vừa “rền” vừa ngon, vừa dẻo, tôi lại nhớ đến chiếc bánh chưng sống chiều 30 Tết năm xưa trong trại cải tạo ở miền Bắc. Ông bạn già Thượng Tọa của tôi được tha về được chừng 4 năm là mất. Tết đến, ăn miếng bánh chưng tôi lại nhớ ông.”
Thượng tọa Thanh Long đã thấu hiểu lòng bạn, rồi đến rải lòng từ thật đúng lúc khi chiếc bánh chưng con được mở ra, hạt nếp rơi lả tả. Nó còn sống. Người bạn tù đã chưng hửng khi được ngài đổi bánh chín lấy bánh sống. Những việc làm này tưởng chừng chỉ dễ làm ở những xứ Úc, xứ Mỹ dư thừa vật chất. Thế nhưng đối với Thầy Thanh Long thì ở nơi nào cũng vậy, ngài hành động nhanh và hợp tình hợp lý đến không ngờ.
Vậy đó, lướt qua ba mẩu chuyện kể của tác giả Phan Lạc Phúc về Thầy Thanh Long đã làm rúng động tim người đọc. Tâm “đại hùng, đại lực, và đại bi” của ngài Thượng tọa đã ghi đậm nét trong trí nhớ của tác giả và đến nay đã qua ngót nửa thế kỷ mà vẫn còn nguyên vẹn để truyền đến người đọc này.
Đâu phải tự nhiên mà có một năng lực hùng mạnh như vậy để kéo dài qua nửa thế kỷ và còn dài dài về sau nữa. Có phải chăng đó chỉ là cái TÂM. Cái tâm lành thiện và phải có cả hùng, cả lực và cả bi nữa thì mới làm nên câu chuyện.
“Các hồi ký khác đọc thấy đau đớn, uất hận. Bè Bạn Gần Xa đọc xong thấy tin tưởng, xúc động, hãnh diện về con người – thấy sướng. Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện, Thượng Tọa Thanh Long v.v… họ lớn lao quá. Người đời sẽ biết ơn anh về những phát giác ấy.” (Nhà văn Võ Phiến)
Dẫu cho rằng cả người kể chuyện lẫn người trong chuyện nay đã ra người thiên cổ, mà hậu duệ, người đang cầm quyển Tuyển Tập Tạp Ghi – Phan Lạc Phúc, thì đang ngẩn ngơ vì nó!
California, ngày 29 tháng 12 – 2021
Doãn Cẩm Liên
No comments:
Post a Comment