Oct 31, 2016

HALLOWEEN

Chắt ngoại cụ Sỹ-Thảo @ 2 tuổi chơi Halloween



Halloween, also known as All Hallows' Eve, or All Saints' Eve s a celebration observed in a number of countries on 1 October. It begins the three-ady observance of Allhallowtided, the time in liturgical year dedicated to remembering the dead, including saints (hallows(, martyrs, and all the faithful depart. 

Source: https://en.wikipedia.org/wiki/Halloween

Cháu Doãn Quốc Ti Oui @ 10 tuổi chơi Halloween

PLUNGE STRAITH IN - Paulo Coelho



She was on the beach with her father, and he asked her to go and see what the temperature of the water was like.  She was five years old and glad to be able to help.  She went to the water's edge and dipped in a toe.

'I put my feet in and it's cold,' she told him.

Her father picked her up and carried her down to the water again and, without any warning, threw her in.  She was shocked at first, but then laughed out loud at the trick he'd played.

'How's the water?' asked her father.
'It's lovely,' she replied.
'Right, from now on, whenever you want to find out about something, plunge straight in.'

"Brida" - Paulo Coelho

Oct 28, 2016

CON VỊT NGỒI THIỀN


Cháu nội Vịt của ông Sỹ bà Thảo 


"CON ĐƯỜNG ĐỂ TÁI SINH TỐT ĐẸP DẪN NHẬP"

[...]

Khi kể lại “cuộc tầm cầu cao quý” của Ngài, Đức Phật nói rằng khi Ngài quán sát thế gian ngay sau khi thành đạo, Ngài thấy chúng sinh như hoa sen qua các giai đoạn sinh trưởng khác nhau trong hồ nước. Có những hoa sen đã ở mặt nước hoặc gần mặt nước, có khả năng giác ngộ chỉ qua tiếp xúc với giáo pháp xuất thế của Ngài.

Nhưng đa số chúng sinh khi tiếp cận với giáo pháp như thể những búp sen còn chìm sâu dưới mặt nước. Các đóa sen này được hưởng lợi qua ánh sáng mặt trời và dùng năng lượng đó để duy trì sự sống, nhưng vẫn cần thời gian để có thể vươn lên đến mặt nước.

Cũng như thế, đa số phàm nhân khi nghe được Phật pháp và thiết lập niềm tin, vẫn phải nuôi dưỡng các phẩm hạnh tốt với năng lượng của Pháp, cho đến khi tâm thức họ được phát triển đầy đủ để thực chứng giác ngộ. Tiến trình này thường phải qua nhiều kiếp sống.

Như thế, những người đó cần phải có phương cách dài hạn để phát triển tâm linh. Khi thực hành con đường giải thoát, họ phải tránh việc tái sinh vào những cảnh khổ, tạo những kiếp sống nối tiếp với bảo đảm vật chất, an vui và có cơ hội cho tiến bộ tâm linh.

[...]


Source: http://thuvienhoasen.org/images/file/FsVg6i1s0wgQAOM8/nhung-loi-phat-day.pdf

TRELLICK TOWER


Toà nhà Trellick Tower bây giờ được trong danh sách không được phá.
Dân nhà giàu của Anh Quốc mua hết mấy căn hộ trong đó rồi.

Khi đi ngang đây, Quân nhắc đến một album cover của Beatles cũng được chụp tại toà nhà xây giống kiểu này.  Rồi nhắc đến Hiển vì út zai của bố Sỹ mẹ Thải vì út zai mê Beatles :) 






The building was designed several years before the 1970s energy crisis, and the facade system does not manage heat at all. he facade of the tower is formed of two parts, the concrete brutalist structure, and wood and glass assembly storefront systems. Many of the original single panes of glass have been replaced either with double glazing in the existing wood frame, and plexiglass. The overall result is a minimal improvement in thermal performance. Overall the wood facade elements are warped, cracking, and do not seal well. The single layer construction bleeds heat at an appreciable rate. Further, the concrete elements bridge from the outdoors to the indoors, conducting heat from the interior to the exterior, where the concrete acts as a heat fin in a phenomenon called a Thermal bridge. 


AMERICAN DREAM - Hưng Hoà Nô Oui



BEFORE 
and 

10 YEARS AFTER 




Hi all,

Cách đây đúng 10 năm, ngày 27/10/2006, gia đình Hưng-Hòa-Nô-Oui đặt chân đến đất Mỹ, bắt đầu cho một cuộc đời mới, bỏ lại sau lưng một cuộc sống đã ổn định tại Việt Nam. Đón tại phi trường LAX  là chị Hương, Bill & Quỳnh Anh. Ra khỏi phi trường LAX đã là hơn 9 giờ tối. Căn nhà đầu tiên ghé đến là căn A Lampson của cô Quí-chú Phong, để bỏ bớt hành lý trước khi đi San Diego. Tấm ảnh đầu tiên chụp trên đất Mỹ là tại đây. Mọi người có thể thấy Ti Oui là hào hứng nhất.

Mười năm trời, đổi bảy địa chỉ. Riêng Hưng cũng đổi công việc bảy lần. Hòa thì ổn định hơn, sang là đi học một nghề, và ra trường làm đúng một nghề ultrasound technician như đã tính từ VIệt Nam.
Sau 10 năm, “American dream” theo cách định nghĩa của người Mỹ đã làm xong. HHNO dọn vào căn nhà ở Random Drive nhưng mang biển số 77 Bàn Cờ & 338/60B Thành Thái vào tháng 17/11/2013, đã ở đây được 3 năm, chứ không còn phải mỗi năm một dọn như trước.

Còn “American Dream” theo cách nghĩ riêng của mình? Ti Nô gia nhập Army năm 2014, đang đi học đại học để chuẩn bị thành một giáo viên dạy ngành sử. Một ước mơ không bao giờ làm được ở VIệt Nam. Ti Oui đang ở lớp 11 trung học, dự định sẽ học về space engineer. Người Việt mình ra đi là để lo cho tương lai con cái. Bây giờ nhìn lại nền giáo dục ở VIệt Nam hầu như không thể thay dổi, nhớ lại cảnh ngày xưa Ti Nô khổ sở trong trường như thế nào… Đây mới là ý nghĩa quan trọng nhất của “American Dream”.

Nhưng mà “American Dream” không chỉ dành cho Nô & Oui. Hòa bây giờ là “gia chủ”, đã nghĩ đến chuyện mở thêm phòng để đón anh Tuấn chị Hạnh sang ở cùng trong vài năm tới. Thỉnh thoảng, hai vợ chồng buổi chiều cuối tuần ra patio sau vườn, ngồi ngắm nhìn cây cỏ, trời đất. Hồi xưa ở Việt Nam, dân mình hay mơ ở nhà villa (nhà có vườn), đi xe hơi. Thì bây giờ sao giống vậy quá!
Hưng bây giờ còn có thêm một gia đình mới ở Mỹ, Giới Trẻ Mây Từ, để thực hiện ước mơ cuối đời: giữ gìn Phật Pháp cho thế hệ trẻ tại Hoa Kỳ, và cả cho thế hệ trẻ tại Việt Nam trong tương lai.
Nhìn lên thì chẳng bằng ai,
Nhìn xuống thì cũng chẳng ai bằng mình…

10 năm qua ở nước Mỹ. Như một cái chớp mắt. Tối nay, HHNO sẽ rủ chị Minh Thư đi nhà hàng TGIF (Thanks God It’s Friday) để kỷ niệm 10 năm một cuộc đổi đời…

Thank you America... God Bless America…

Cheers,

Hưng Hòa Nô Oui

@ BRIXTON

Brixton  là nơi David Browie ra đời
và cũng là nơi cháu ngoại cụ Sỹ-Thảo đang sinh sống 


Chị Bi 


David Robert Jones



NHÀ GIÀU - Doãn Khánh


Tôi có người em rể viết bài hát vần U cho con gái đầu lòng học đọc. Tôi còn nhớ hai câu trong đó:

“Nhà giàu lái xe vù vù
Nhà nghèo kí cóp từng xu.”

Từ ngày định cư ở Mỹ, tôi vẫn thường ngẫm nghĩ đến hình ảnh nhà giàu, nhà nghèo này. Ngày tôi vất vả lấy được bằng lái xe, rồi mua được chiếc xe cũ, tôi cười tủm tỉm, tự thấy mình vừa “lái xe vù vù”, vừa “kí cóp từng xu”. Thế mới là Mỹ!

Một buổi tối mùa đông, trời vừa mưa vừa gió, tôi lái xe đi học. Khi đi còn chút ánh sáng le lói, khi về trời tối mịt. Thầy dạy xong rồi, tôi nhấp nhổm, nghĩ tới đoạn lái xe về. Vậy mà các bạn còn níu thầy lại, hỏi thêm điều này điều nọ. Câu chuyện dường như không dứt được vì thầy hứng khởi trước sự ham học của các trò, đang thao thao bất tuyệt. Cuối cùng tôi dứt khoát đứng dậy: “Thưa thầy, con xin phép về trước.” Thầy cho phép, các bạn ngạc nhiên “ủa, sao về sớm vậy?”. Khi tôi vội vã bước ra khỏi lớp, còn nghe chị bạn nói với theo “Lái xe cẩn thận nghe!”.

Vừa bước ra ngoài, tôi khựng lại vì bị gió tát vào mặt và không khí lạnh thấu xương. Tôi bật mở dù, rảo bước ra xe, nhưng gió mạnh quá, làm bẻ quặt dù. Loay hoay mãi mới tới được xe, mở cửa xe và ngồi phịch vào xe. Tôi mở máy, cho máy chạy một phút, vặn nút để sưởi kính trước, kính sau. Nhớ lại cách đó chỉ một tháng tôi không biết làm động tác này khi trời mưa nên đã gần như bịt mắt lái xe! Giờ thì khôn hơn …

Tôi bắt đầu di chuyển xe, thường ngày vận tốc cho phép ở quãng này là 45, hôm nay, theo bài bản trời mưa, tôi chỉ đi 40. Tôi ôn lại đường đi, quẹo phải ở ngã tư đầu tiên, đi một đoạn rồi quẹo phải vào đường Magnolia, từ đó lấy lane trái thẳng hoài tới chỗ quen thuộc gần nhà.  Trời vẫn mưa gió, tôi quẹo phải, chạy một lúc rồi giật nẩy mình. Không biết mình đã quẹo phải lần hai chưa? Mình đang ở đường nào đây? May quá đèn vừa đỏ, tôi dừng lại và liếc nhìn lên bảng tên đường. Chết rồi, mình vừa tới ngã tư Magnolia, lẽ ra phải quẹo phải nhưng mình lại đang nằm ở lane trái. Làm sao đây? Tôi nhìn vào kính chiếu hậu thấy đàng sau không có xe. Lùi xuống một chút, chuyển sang lane kế bên phải, nhưng vẫn chưa quẹo phải được. Phải lùi tiếp, tìm cách sang lane tiếp! Kịp không? Không kịp. Nhưng lỡ lùi rồi, sao đây? Vừa lúc ấy tôi cảm nhận xe tôi đụng phải một cái gì đó, hình như nghe tiếng “RẦM”! Tôi hoảng hồn dừng xe lại. Thôi thì đâu ở yên đó, chút nữa cứ đi thẳng, tới đường kế quẹo trái rồi U-turn cũng được. Nhưng vừa lúc đó tôi nghe tiếng bóp còi inh ỏi, giận dữ. 

Tôi bối rối tận cùng. Có lẽ xe sau bực mình vì tôi đang đậu “chàng hãng” giữa hai lanes. Tai vẫn nghe tiếng còi mắng mỏ, mắt tôi van lơn nhìn lên đèn, thầm nài nỉ: “làm ơn xanh đi, xanh liền đi”. Rồi đèn cũng xanh, tôi cố gắng bình tĩnh chạy vào trong lane. Tới ngã tư kế, tôi quẹo trái như đã dự tính. Vừa queo xong, đang lấy lại tốc độ thì bỗng dưng có một chiếc xe chạy vù vù qua mặt tôi từ bên phải, rồi sang lane và đứng lại lù lù trước xe tôi. Tôi cố nhìn về phía trước, thấy không có đèn đỏ, cũng không có tai nạn. Tại sao cái xe kia lại ngừng ngang xương? Thôi thì mình sang lane chạy tiếp vậy. Vừa lúc ấy, cửa xe dằng trước bật mở. Một người con gái từ xe bước ra, hùng hổ tiến về phía xe tôi. Cô ấy nói gì tôi không nghe. Cô ấy ra hiệu cho tôi xuống kính xe, tôi bấm nút. Một loạt âm thanh giận dữ tràn ngập tai tôi:
-               Cô có biết là cô đụng xe tôi rồi bỏ chạy không? Tại sao nghe tôi bấm còi mà không ngừng? Tôi chạy theo cô nãy giờ, bây giờ mới bắt được. Tôi sẽ kêu cảnh sát bắt cô vì tội hit and run. Cô lái xe ngay sang bên lề cho tôi nói chuyện v…v…”
Tôi như bị trời giáng. Đầu óc tối đen, tôi chỉ biết luýnh quýnh xin lỗi:
-        
       Tôi không hề biết đã đụng xe cô, cứ tưởng đụng phải con lươn.
Khi cả hai xe đã đậu sang chỗ đậu khẩn cấp bên lề phải thì người con gái tiếp tục bài ca “hit and run”  và đòi tôi đưa giấy tờ xe và bảo hiểm. Tôi vừa lấy giấy tờ vừa ngẫm nghĩ sao cô này hay thiệt, trời tối mịt mà vẫn nhận ra tôi là người Việt giống cô ấy. Tôi đưa giấy tờ, nhắc lại lời xin lỗi và giải thích rằng tôi mới lấy bằng lái và không có kinh nghiệm. Tôi cũng cam đoan sẽ đền tiền nếu xe bị hư hao. Thấy tôi không có ý chạy tội, hoặc gây gổ lại, người con gái có phần dịu giọng. Cô cầm giấy tờ, nói:
-               Cô vào xe cháu ngồi cho đỡ lạnh.” 

Trời đã ngớt mưa. Một thanh niên trên một chiếc xe khác – có lẽ người nhà của cô gái-  cũng đậu xe theo và lặng lẽ lên xe cùng chúng tôi.Trong xe, cô xem xét kỹ lưỡng và ghi xuống tên và địa chỉ của tôi. Cô hỏi thêm số điện thoại rồi nói:
-               May mà cháu cuối cùng bắt được cô; cháu đã tính kêu cảnh sát rồi. Cô nói sao kỳ vậy, đụng xe người khác mà không biết hả? … Giấy bảo hiểm của cô sao không thấy số đâu hết vậy?
Cô đưa tờ giấy cho người thanh niên coi. Anh này coi rồi nói nhỏ điều gì đó. Người con gái nói:
-               Thôi được. Xe cô hiệu Toyota, phải không? Đời nào?
-               Đời 94
Tội nghiệp “cụ” xe của tôi, già rồi mà không được yên thân! Tôi buột miệng hỏi:
-               Xe của em hiệu gì?
-               Mercedes. Đời 2010.

Thì ra thế. Tên Mercedes và số 2010 được dằn từng tiếng và bắn ra như hai viên đạn chết người. Người đã xưng “cháu” với tôi, nhưng khi bắn hai phát đạn này ra thì giọng vẫn lạnh lùng và ngạo mạn. Tôi im lặng suy gẫm. Đạn bắn trúng tôi nhưng không thể gây thương tích nặng được vì xưa nay, từ Việt Nam qua Mỹ, tôi chưa bao giờ bị mấy chiếc xe đời mới hớp hồn.

Cô gái cũng im lặng chờ đợi phản ứng của tôi. Không thấy tôi nói gì, cô nói tiếp:
-               Bây giờ mình ra coi cái xe của cháu.

Ba người lại ra khỏi xe, cùng đứng ngắm nghía đầu, càng, bảng số của chiếc Mercedes đời 2010. Dưới ánh đèn đường, tôi thấy không có gì bất thường. Cô gái vẫn không yên tâm:
-               Đèn mờ quá, có vết trầy cũng không thấy được. Nhà cháu cách đây không xa, cô lái tới đó để mình coi lại, được không?
Tôi đột nhiên ngán đến tận cổ tai nạn này nên nài nỉ:
-               Tôi mệt lắm rồi. Trời mưa gió, lại khuya khoắt, tôi cảm thấy bất an lắm. Em cứ để tôi về. Có số điện thoại của tôi, em có thể gọi nếu sáng mai em thấy xe bị sao đó.
Người con gái cười nhẹ, giọng thông cảm:
-               Cô bất an hả.? Tội nghiệp. Thôi cô về đi, có gì ngày mai cháu gọi.

Tôi thở phào, lên xe đi tiếp. Một chốc sau, tôi mới nhận ra là mình quên quay ngược đầu xe và đang đi ngược hướng nhà!

Về đến nhà, thì anh bạn thân thiết của tôi đang ngồi đợi, sốt ruột vì tôi về trễ. Tôi kể cho 
anh nghe mọi chuyện. Anh lấy đèn pin ra soi cái đuôi xe của tôi. Không có vết trầy nào hết. 

Anh nói:
-               Toyota 1994 mà không trầy thì Mercedes 2010 ắt vô sự.

Suốt buổi sáng hôm sau, chúng tôi cùng hồi hộp đợi điện thoại. Cuối buổi vẫn không có điện thoại. Anh gầm gừ sau tiếng “hừ”:

-->
-               
Đúng là nhà giàu đứt tay …
Doãn Khánh 

PHẬT TỬ TẠI HOA KỲ LÀ NHÂN TỐ QUAN TRỌNG - Doãn Quốc Hưng

Nhóm Giới Trẻ Mây Từ tại khóa tu dã ngoại ở Mountain High, California. 

Hòa Thượng Thích Phước Tịnh: Phật tử tại Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng để bảo tồn truyền thống Phật Giáo Việt Nam


Vào những ngày tiết thu trung tuần Tháng 10, nhóm Giới Trẻ Mây Từ tại khóa tu dã ngoại Những Bước Chân An Lạc trên vùng rừng núi Mountain High (California) cho hơn 100 tăng ni, Phật tử đến từ nhiều nơi của Hoa Kỳ. Trong khóa tu này, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có một bài giảng về lịch sử văn hóa lâu đời của Phật Giáo Việt Nam, để rồi từ đó đặt trọng trách cho các Phật tử, tăng ni trên đất Mỹ.

Hòa Thượng Thích Phước Tịnh giảng rằng Bắc Ninh, quê hương của những làn điệu Quan Họ ngọt ngào, cũng là một trong những cái nôi lâu đời nhất của nền văn hóa Phật Giáo của dân tộc Việt. Ngay vào những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, cố đô Luy Lâu (hiện nay thuộc hiện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, cách Hà Nội khoảng 30 km) đã là một trung tâm văn hóa, thương mại sầm uất, nơi giao điểm của các nền văn minh. Tại đó, ngôi chùa Dâu (còn gọi là chùa Pháp Vân) đã được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ Ba, được xem là một trong những ngôi chùa cổ kính nhất của nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Tại cái nôi của Phật Giáo này, Thiền Sư Khương Tăng Hội đã có công xây dựng, khởi đầu cho dòng chảy Phật Giáo Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỷ thứ Ba.

Cha mẹ của ngài Khương Tăng Hội đến từ Ấn Độ, sinh ra ngài tại Giao Chỉ, tức là Việt Nam thời đó. Có thể xem Thiền Sư Khương Tăng Hội là Sơ Tổ của Thiền Tông Việt Nam. Điều đáng nói là ở chỗ, một số sử sách ghi chép rằng chính ngài cũng đã đem đạo Phật sang tận Lạc Dương, Trung Hoa, trước cả Tổ Bồ Đề Đạt Ma  (Sơ Tổ của Thiền Tông). Người Phật tử Việt Nam cần biết điều này, để bỏ qua mặc cảm thành kiến, khi tưởng rằng Phật Giáo Việt Nam xuất phát từ Phật Giáo Trung Hoa! Hình như trong nước, khuynh hướng lệ thuộc, tôn sùng nền văn minh Trung Hoa đang được truyền bá rộng rãi một cách có hệ thống, có ý đồ!

Nhưng một lịch sử văn hóa lâu đời của quá khứ như vậy không có ích gì cho hiện tại, khi mà hiện nay Phật Giáo Việt Nam trong nước đang bị chính quyền CSVN làm cho băng hoại. Chẳng có gì đáng tự hào, khi mà những giá trị  bi- trí- dũng của Phật Giáo thời Lý-Trần đã biến mất trên quê hương Việt Nam. Thay vào đó, là một xã hội Việt Nam băng hoại đạo đức đến tận gốc rễ, khi mà con người chỉ còn chạy theo giá trị vật chất, tiền bạc. Cái tầng cạn nhất của ngũ uẩn là sắc uẩn, nay lại trở thành giá trị được con người tôn sùng, bỏ qua những giá trị sâu sắc hơn về mặt tâm thức của con người. Không tin vào nhân quả, con người đang tàn phá, huỷ diệt quê hương chỉ vì lợi ích trước mắt của cá nhân, gia đình, đảng phái. Người Phật tử Việt Nam phải cảm thấy đau lòng trước tình trạng đạo pháp suy vong ngay trên quê hương mình, vốn có một truyền thống Phật Giáo lâu đời và rực rỡ.
Trở lại với thực tại, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh nói rằng người Phật tử ở Mỹ hiện đang có đầy đủ duyên lành nhất để đến với Phật Pháp. Xứ Mỹ có thể xem là một cảnh trời, mà một số kinh sách đã từng mô tả. Không khí trong lành. Vật chất thừa thãi, con người không phải lo lắng về cơm áo. Quyền tự do cá nhân, tự do tôn giáo được tôn trọng tuyệt đối. Chùa chiền, tu viện, kinh sách, giới tăng ni ở tiểu bang Cali tập trung dồi dào vào bậc nhất. Có lẽ không ở nơi đâu, điều kiện tu học, thực hành Phật Pháp của người Phật Tử VIệt Nam lại thuận lợi như trên đất Mỹ.

Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã thiết tha kêu gọi người Phật Tử gốc VIệt tại Hoa Kỳ hãy học hỏi, nghiên cứu lời Phật dạy. Điều quan trọng hơn là hãy thực hành. Bởi vì Đạo Phật không thể thấu hiểu bằng lý thuyết mà thiếu phần thực hành. Hãy thực hành Chánh Pháp, giữ gìn Chánh Pháp. Hãy tìm phương cách phù hợp để truyền được tinh thần, cách sống theo Phật Pháp cho thế hệ con em sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ.  Nếu chỉ với lễ nghi, cúng kiếng, Phật Giáo sẽ không đủ sức thuyết phục đối với giới trẻ.


Cũng như công cuộc bảo tồn lịch sử, văn hóa Việt Nam, nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam cần được gìn giữ, bảo tồn bởi những người Phật tử gốc Việt tại Hoa Kỳ. Rất có thể, đó sẽ là những mầm Phật Pháp trong tương lai để gieo trồng lại tại Việt Nam, khi mà quê hương thực sự thay đổi theo chiều hướng tự do, văn minh, dân chủ.

Doãn Quốc Hưng 

Oct 24, 2016

BẠN - Doãn Khánh




Tác giả: Khánh Doãn
Bài số 4947-18-30647-vb8102316

Tác giả là cư dân Huntington Beach. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của cô là “Chuyện Vui Sầu” ký bút hiệu Khánh Doãn đã được phổ biết từ tháng Tư 2011. Sau đây là bài viết mới.

* * *

Người Việt Nam có khái niệm khá thoáng về “bạn”. Gặp nhau vài lần là có thể rủ nhau cà phê cà pháo. Rồi “mời anh/chị ghé nhà tôi chơi”. Thế là chẳng mấy chốc trong danh sách bạn có thêm một người. Tôi có lần nói với học trò rằng người Mỹ quan niệm khác với mình về tình bạn. Với người Việt, không phải là thù thì ắt là bạn. Với người Mỹ, số bạn thường đếm trên đầu ngón tay.

Tôi với Quỳnh có vài năm trời cùng làm việc tại một văn phòng phục vụ cộng đồng Việt Nam và biết khá rõ về nhau. Công việc tôi là “điều phối viên”. Tôi dạy học, lo sổ sách giấy tờ những dự án với các đối tác bên ngoài, trả lời thư từ của họ, theo dõi tiến trình hoạt động của văn phòng. Trước đây, khi Quỳnh chưa về làm việc, tôi còn đi ra ngoài họp hành nữa, và đồng thời đi mua sắm dụng cụ văn phòng và thực phẩm cho nhân viên. Thuở ấy, ngân sách văn phòng rất eo hẹp, tôi theo nếp người quản lý cũ, không mướn người quét dọn, coi đó là nhiệm vụ của nhân viên. Có nhiều loại việc các nhân viên luân phiên làm không càu nhàu, như quét các phòng, lau bụi bàn ghế, đổ rác …

Riêng việc lau chùi nhà vệ sinh thì mọi người tự động làm rất qua loa. Nhưng đó lại là nơi hay được dùng nhất và là một tiêu chuẩn để người ngoài đánh giá trụ sở nơi chúng tôi làm việc. Cuối cùng, tôi chính là người thường xuyên lau chùi nhà vệ sinh. Mỗi lần làm việc này, tôi tự nhủ mình thật đa năng, làm công việc từ quản lý đến lau chùi! Khi Quỳnh được tuyển dụng với chức vụ “manager” thì cô lập tức đảm nhiệm chuyện đi họp và tôi chỉ ra khỏi văn phòng để đi chợ thôi! Tôi thường nói đùa: “Quỳnh là bà ngoại, chị là bà nội.”

Thỉnh thoảng có dịp cùng đi họp với nhau, Quỳnh luôn là người lái xe. Đây là dịp chúng tôi cùng nghe trên xe hai loại nhạc mà cả hai đều yêu thích: nhạc Pháp và tình ca Việt Nam. Tôi am tường nhạc Việt Nam và tiếng Pháp nên Quỳnh hỏi han đủ thứ và câu chuyện trên xe thường thú vị. Vậy mà nếu có ai hỏi: “Chị và Quỳnh là gì của nhau?” thì tôi đều nói “đồng sự”. Không có chữ “bạn” trong quan hệ của tôi với Quỳnh.

Một ngày nọ, cô giám đốc từ Virginia đến thăm văn phòng. Cô dành một buổi sáng để họp với tôi và Quỳnh. Theo yêu cầu của cô, tôi và Quỳnh lần lượt liệt kê những công việc mình làm và kết quả. Tôi nói trước, Quỳnh nói sau. Quỳnh vừa dứt lời thì cô giám đốc lập tức nói: “Quỳnh, em có thấy là cô Khánh làm quá nhiều việc không? Em làm gì để giúp cô ấy?” Quỳnh còn đang ấp úng thì cô liền trả lời dùm: “Không làm gì cả!”

Kể từ buổi họp hôm ấy, tôi mới nhận ra rằng Quỳnh quả không làm gì cả trong văn phòng. Những buổi họp thì thường lưng chừng từ giữa sáng đến giữa trưa, đủ để cô có lý do không đến văn phòng trước khi họp và không về sau khi họp! Tuy vậy, nhiều lần Quỳnh nói với tôi: “Chị sướng quá chừng, được học trò thương.” Tôi im lặng, nhận lời khen.

Quả thực, đối với tôi, được thương là một phần thưởng lớn lao, nhưng Quỳnh không hề học bài học rằng được thương cũng phải có cái giá của nó. Hơn nữa, Quỳnh rất bình thản khi thấy tôi làm việc và không hề tỏ ý áy náy về sự nhàn hạ của mình. Vì vậy tôi không thể dùng chữ “bạn” để mô tả quan hệ của tôi với Quỳnh, dù đây là một người đồng hành với tôi nơi làm việc trong nhiều năm. Không ngờ tôi đã chịu ảnh hưởng của người Mỹ vế khái niệm “bạn”.

Tôi được chứng kiến một tình bạn ở LA Fitness, nơi tôi đến mỗi sáng. Tại đó, ở khu vực chạy bộ tôi luôn đến sau một ông già người Việt, nói giọng nam, tính tình rất xởi lởi. Ngày này qua ngày nọ, ông già luôn dùng máy thứ nhất trong dãy. Thấy tôi, ông cười tươi và chỉ vào máy thứ ba. Tôi có muốn dùng máy thứ hai cũng không được vì máy tuy trống nhưng bao giờ cũng có một chai nước để sẵn.

Từ máy số 1, ông thỉnh thoảng bắt chuyện với tôi ở máy số 3. Toàn những câu cà rỡn trống không. “Bạn trai đâu mà đi một mình dzậy?” “Ngủ quên sao giờ này mới tới?” “Cho tui số điện thoại đi, mỗi sáng tui kêu dậy cho!” Tôi chỉ cần trả lời qua loa và cười thân thiện thôi. Chừng mười lăm phút sau thì người đàn ông Việt cho máy dừng, bước sang máy có chai nước, khều tôi để chọc ghẹo thêm một câu “Sao không nói gì trơn dzậy?” Vừa lúc đó một phụ nữ trung niên người Mễ tới, thản nhiên bước lên máy số 1, miệng nói câu chào và hỏi thăm: “Good morning, sir.” “How are you feeling today, sir?” Tôi nghe người đàn ông chào lại, và nói nhỏ một điều gì đó về sức khỏe của ông, chứ không phải câu thủ tục “Im fine, thank you”. Rồi hai người im lặng đi bộ trên máy, thỉnh thoảng trao đổi một vài nhận xét ngắn gọn. Tôi thường rời máy trong khi họ vẫn còn tiếp tục.

Diễn tiến trên thoạt có vẻ bình thường, nhưng nó lập đi lập lại hết ngày này qua tháng nọ, lâu và ít thay đổi đến độ tôi thấy cái bình thường trở nên đặc biệt. Dần dà tôi hiểu ra rằng chai nước là của ông Việt dùng để giữ chỗ cho chính mình; trong khi ông dùng máy số 1 để giữ chỗ cho bà Mễ. Đôi lần ông Việt giữ chỗ nhưng bà Mễ không đến. Khi tôi chỉ vào chỗ trống, ý hỏi tại sao vắng bóng người, thì ông lắc đầu một cách phân vân. Có một lần bà Mễ đến nhưng máy số 2 không có chai nước, cũng không có người. Tôi hỏi tại sao thì bà Mễ trả lời rằng ông ấy đi bác sĩ. Một lần khác, khi ông Việt dừng máy 1, dời sang máy 2 có chai nước để bà Mễ bước lên thì tôi nghe bà nói: “Tưởng hôm nay ông không đến chớ.” Ông hẳn có thói quen báo trước những ngày ông có thể vắng mặt.

Một hôm ông Việt vui miệng tiết lộ với tôi: “Tụi tui biết nhau cả chục năm rồi đó.”

À ra vậy. Họ đích thực là bạn của nhau. Máy chung quanh không bao giờ thiếu nhưng họ vẫn giữ cái nếp chạy bộ cạnh nhau. Họ không cần nói nhiều nhưng nghe kỹ thì có sự quan tâm trong cách họ hỏi thăm nhau. Ông Việt chắc chắn có vợ vì thỉnh thoảng, trong câu chuyện của ông, tôi nghe hai chữ “my wife”. Bà Mễ chắc chắn không “còn không” vì tôi nghe ông Việt có lần hỏi “Bạn trai bà đâu rồi?” và bà chỉ vào một góc của tòa nhà, nói: “Đằng kia!”

Hôm nay tôi đến LA Fitness thì chỉ thấy bà Mễ đang chay bộ trên máy. Thấy tôi đến, bà nói liền: “Hôm nay ổng không đến. Chắc chắn bệnh rồi. Tôi lo quá chừng.” Tôi cũng rất lo; tôi không muốn chứng kiến một tình bạn mất đi vì một người không còn nữa. Chữ “bạn” đẹp là thế, nên đời tôi mà không “dắt vai” được dăm chữ bạn làm vốn thì tôi coi đó là một thất bại.

Chiều nay, như thường lệ, tôi đón một bác volunteer (đã 80 tuổi) đi dạy học với tôi. Bác trước đây học lớp quốc tịch của tôi, và sau khi đậu quốc tịch bác tình nguyện vào giúp phỏng vấn những người sắp thi. Để giúp họ đắc lực hơn, bác tiếp tục ngồi ở lớp tiếng Anh của tôi, theo đúng quan niệm rằng biết 10 dạy 1 thì dạy mới hay.

Chiều nay vừa lên xe bác đã hỏi “Sáng nay cô có lấy thực phẩm của food bank không?” Văn phòng tôi có lệ thứ tư nào cũng phát thực phẩm của Food Bank cho nhân viên và học viên. Tôi trả lời: “Dạ không, cháu thấy chen chúc với học viên kỳ quá!” Đến văn phòng, tôi vào lớp chuẩn bị dạy học thì nghe tiếng bác cằn nhằn cô nhân viển ở ngoài: “Tính cô Khánh hay giữ kẽ, chị mà không để riêng cho cổ thì cổ sẽ không lấy gì hết!” Rồi bác lục lọi sao mà cuối buổi đưa cho tôi một bịch trái cây và một bịch rau. “Nè, tui lấy cho cô đây. Không có tui là cô mất phần!” Bác kể công một cách hồn nhiên. Tôi vui vẻ nghĩ bác là học viên, là đồng nghiệp và cũng chính là bạn của mình.

Một buổi sáng cuối hè, tôi đang ngồi ở máy vi tính thì điện thoại reo. Tôi nhấc máy, nghe tiếng thì thào: “Khánh, đến nhà Hương lấy trái cây nha. Chừng nào đến được?” Đó là chị Hương. Khi nào trái cây vườn nhà chín, chị đều nhớ đến tôi. Nghe tiếng thì thào thì biết chị gọi tôi từ sở làm.

Năm 1978, khi còn ở Việt Nam, Bà Hương, con Đào và tôi (con Khánh) mới ra trường, làm thành một bộ ba mà ông hiệu trưởng gọi là “các cô nhà tập thể” với một giọng đầy ẩn ý. Các cô nhà tập thể nhiều tội lắm, nặng nhất là tội làm con cấp tá “ngụy” và con nhà văn “phản động”. Tội thứ hai là khi họp hành thì bà Hương và con Đào nói năng linh tinh, còn con Khánh không nói nhiều chỉ nhìn khinh khỉnh. Có lần sau một buổi họp, ba đứa về phòng, con Đào cười ngặt nghẽo nói: “Con Khánh chỉ nhìn thôi mà nặng kí hơn hai đứa mình nói ào ào đó bà Hương!”

Tội thứ ba là chúng tôi làm nhiều chuyện tầm bậy tầm bạ. Thí dụ, có lần ba đứa khám phá được một kho sách phế thải mà ban giám hiệu không ngó ngàng tới. Kho sách hôi mùi mốc và vừa mở cửa đã vang tiếng mọt ăn giấy rào rạo. Vốn mê sách và đói sách, ba đứa lục lọi và thấy đa số là sách tiếng Anh của Mỹ viện trợ ngày xưa. Toàn sách bìa cứng, hình ảnh nhiều và rất đẹp. Ban giám hiệu mù tịt tiếng Anh nên đã từ lâu bỏ sách vào kho và khóa trái cửa lại. Ba đứa chúng tôi lựa một số sách chưa bị mọt ăn, cất về phòng nhà tập thể, đến cuối tuần mang về “sào huyệt” ở Sài Gòn. Khi sự việc bị khám phá, cả ba đều mang tội “ăn cắp”. Có lần chúng tôi khăn gói về thăm nhà cuối tuần thì bị “các thầy nhà tập thể” (vốn đều là đoàn viên Cộng Sản) lén xét giỏ xem có quyển sách “ngụy” nào không.

Nói tóm lại, “các cô nhà tập thể” rất bị dòm ngó. Ngày ấy, bà Hương hay kêu oan bai bải. “Ban giám hiệu nói con Khánh bản chất tốt, nhưng bị ảnh hưởng xấu của tao. Lầm chết đi được! Họ có biết đâu cái miệng tao lớn, nhưng con Khánh im ỉm mới chính là lãnh đạo.” Sau này “bà” Hương bỏ nhiệm sở về Sài Gòn chờ ngày đi H.O., con Khánh bỏ nhiệm sở vì quá ngán cảnh chen lấn chầu chực ở bến xe mỗi khi về thăm nhà. Chỉ có mỗi con Đào lấy chồng Vũng Tàu và ở lại đó cho đến bây giờ, đúng như câu ca dao mà chúng tôi vẫn bảo nhau lúc mới gặp: “Đến đây thì ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh cây hẵng về.”

Ngày nay, tôi và chị Hương ở xứ Mỹ vẫn thỉnh thoảng gặp nhau để nói chuyện cũ rồi cười rúc rich với nhau. Tôi nhận quà chị Hương tỉnh bơ, không hề khách sáo tìm một món quà nào khác đáp lễ cho phải phép. Bạn mà!

Tôi có duyên với học đường. Học xong ở học đường này rồi bước sang học đường khác để dạy. Từ trường Trung Học Vũng Tàu nhìn ngược lại dòng đời thì thấy trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Các bạn đại học của tôi từ nhiều tỉnh đến. Tôi dân Sài Gòn mà ngày đầu tiên bước vào lớp tôi cũng bỡ ngở như dân tỉnh. Một bạn đến trước, thấy tôi ngơ ngác quá, bèn chỉ cái ghế bên cạnh, mời: “Chị ngồi đây đi.” Tôi ngồi xuống và kết ngay với người bạn thân nhất thời sinh viên của mình.

Bạn tên Ân, người gốc Huế, học trung học ở Nha Trang. Tại khóa học ấy (khóa 72-76), hai tên Khánh và Ân luôn được nhắc liền với nhau. Sau bao nhiêu mùa thi lê lết ở nhà nhau, tôi vẫn nhớ đến và cười cợt chữ “chị” lúc ban đầu. Năm ra trường, Ân nhận nhiệm sở ở Bảo Lộc, tôi bị chê thiếu “đạo đức cách mạng” ở lại sống lây lất bằng nghề dạy kèm. Những phong thư gửi cho nhau qua bưu điện đề: From: chị Hoài Ân – To: chị Kim Khánh. Ân kể ở trường Bảo Lộc các đồng nghiệp thấy vậy thường ngạc nhiên hỏi “Ủa, ai cũng làm chị, không ai chịu làm em hả?”

Chị em gì mà chẳng được, miễn là tôi đến nhà Ân lúc nào cũng được thưởng thức những món ăn Huế ngon nhất xứ! Ân qua nhà tôi thì tíu tít với chị em nhà tôi như ruột thịt trong nhà. Chị cả của tôi nấu ăn giỏi nên Ân tình nguyện đi theo bóc hành và được gọi là “dì Hành”; bạn của dì Hành (tôi) được gọi là dì Tỏi. Hai dì không mấy đảm đang trong bếp nên vui vẻ với kiếp làm gia vị. Nhưng khi ra đời thì hai dì (đều cầm tinh con ngựa) là hai kiếp ngựa khác nhau. Dì Hành là “ngựa phi đường xa”, thăng tiến ở cấp quốc tế, trong khi Dì Tỏi khiêm nhượng trong sân trường quốc nội. Tôi vui với công việc dạy học đơn thuần và lúc nào cũng ngưỡng mộ “đồng loại” trên đường đua quốc tế. Thỉnh thoảng từ Mỹ viết thư về cho bạn ở Việt Nam, tôi vẫn thường khen “ngựa phi đường xa mới xứng danh là ngựa”. Nay tôi xin hãnh diện khoe rằng bạn ngựa đang phi đường xa chính là bạn chí cốt của tôi đó.

Năm 1999, khi chuẩn bị chuyến xuất ngoại đầu tiên qua Úc để học Cao Học, tôi soạn một số hình ảnh mang theo phòng khi nhớ gia đình, nhớ bạn. Trong số đó có một hình tôi chụp với các bạn lớp 2 ở trường Petit Lycée, hai hình chụp với các bạn lớp 8 và lớp 10 ở trường Marie Curie. Thời gian khác, không gian khác, và các khuôn mặt khác. Duy khuôn mặt của bạn Bạch Trúc hiện diện ở mọi thời gian nơi hai mái trường ấy.

Năm lớp 2, bạn Trúc cắt tóc bum bê vuông chành, không đứng thẳng thớm như những học sinh khác mà vặn hai tay vào với nhau, quay lại nói chuyện với bạn đứng bên cạnh. Năm lớp 7, bạn Trúc đã nhổ giò, đứng trong hàng cuối cùng dành cho những học sinh cao của lớp, miệng cười toe toét. Năm lớp 8 bạn vẫn đứng ở hàng cuối cùng vì vẫn cao (dĩ nhiên), nhưng không hiểu sao mặt lại quạu đeo. Còn một đợt hình nữa, Trúc ta đã thành thiếu nữ, dáng người cao và mảnh khảnh, tay ôm sách vở, đang bước đi trong sân trường. Tôi đoán chừng (đoán đại) hình chụp vào thời điểm nàng mới biết yêu lần đầu. Như thế đấy, tình bạn của tôi và Trúc có “chiều dài lịch sử” (từ lớp 2 đến lớp 12) và vượt qua thử thách của không gian (bây giờ chúng tôi vẫn liên lạc với nhau từ Hòa Lan và Mỹ.)

Thuở còn con nít, tôi là đứa bạn “kỳ cục” của Trúc vì là dân “Bắc kỳ”. Ba má Trúc “Nam rặc”, chắc tự hỏi tại sao con mình không chơi với người “Dziệc” mà lại chơi với người Bắc! Nam Bắc “chỏi” nhau nhiều chuyện tức cười mà bạn Trúc của tôi vẫn nhớ và thường kể lại trong những bức thư Hòa Lan. Dưới đây là hai thí dụ:

“Hồi đó, buổi chiều tan học sớm, 2-3 giờ, Khánh hay rủ Trúc ghé nhà chơi, Trúc hay hỏi "có gì ăn hông?". Có lần Khánh nói "Có bánh mì", Trúc hỏi "bánh mì ăn với gì", Khánh bảo "ăn với ruốc", Trúc nói "ai ăn bánh mì với mắm ruốc", Khánh nói "không phải mắm ruốc, ruốc". Về đến nhà, Khánh đưa ra, Trúc mới la lên "thịt chà bông mà biểu là ruốc".

“Có lần trong khi đang học, lớp Terminal hay sao, 2 đứa mình cãi nhau, Trúc đã im rồi mà Khánh cứ nhỏ to nói hoài, Trúc bực quá quay qua biểu Khánh "nín đi", Khánh tỉnh bơ nói "khóc đâu mà nín", làm Trúc vừa quê vừa tức cười. Nhớ hoài.”

Điều thú vị nhất là Trúc cuối cùng lấy chồng “Bắc kỳ” và hình như đang bị “Bắc kỳ hóa”. Trong khi đó, bồ tèo của tôi là một anh “Nam kỳ” và chất Bắc của tôi đang nhạt nhòa dần. Thảo nào mà tôi và Trúc cứ thân nhau hoài. Đã thế, Trúc không chỉ chơi với tôi mà chơi với cả gia đình tôi, và ngược lại. Năm ngoái chị Hai tôi du lịch qua Hòa Lan, xúc động vì được vợ chồng Trúc tiếp đón quá chân tình. Còn Trúc thì than là nhớ chị cả tuần lễ sau khi chị về. Nhờ Trúc tôi hiểu rằng tấm lòng của một người bạn chân thực bao la, không giới hạn.

Nay tôi ôn lại hình ảnh những người bạn trong đời mình thì thấy không ai giống ai hết. Làm sao định nghĩa được chữ bạn đây? Chỉ biết là đời mình có nhiều bạn thì như vườn hoa có nhiều màu sắc.


Cám ơn các bạn của tôi.

Doãn Khánh

Doãn, Khánh và Doãn, Quốc Sỹ