Aug 6, 2024

TẠM BIỆT SIR!


Ông Carlo Anzon - boss của út, chủ nhà hàng Pendolasco vừa mất tại Ý. Út thường gọi ông là "Sir" cho vui, và toàn bộ đồng nghiệp đều gọi theo.

Sir sinh năm 1942, là ông già gân nên năm nay 82 tuổi vẫn còn đi bộ một ngày 15-20 km.

R.I.P  Sir!


https://youtu.be/hplsTZfRJzI?si=ldz9RDWxjZHEVXli

They had told him not to go, they had warned him that the route in Val Parina was impervious and dangerous. But he had chosen to follow his passion. Indeed, the passion of that moment, because Carlo Anzon was full of interests. «My brother was a bit like Picasso, he had his phases. He had the period in which he loved collecting old cookbooks, the period in which he dedicated himself to photography, and now it was the period of randonnée. He walked 15-20 kilometers every day and his passion was going to the valleys of Bergamo. He knew them very well and visited them by traveling by bus, of which he knew all the lines, because he didn't like taking the car." The speaker is Edoardo, brother of Carlo Anzon, the 82-year-old who disappeared on Friday morning and was found on Sunday 4 August in a stream in Dossena, in Val Parina. A man full of energy and vitality, perhaps betrayed by an illness while he was walking in the mountains.

(Source: https://www.ecodibergamo.it/stories/premium/valle-brembana/addio-carlo-anzon-console-onorario-vietnam-era-disperso-montagna-o_2404424_11/)

Aug 4, 2024

TRIỆU ĐIỀU KHÔNG HIỂU - Doãn Khánh


  
Dù không thích đọc thơ, tôi lại cứ thuộc hai câu thơ của nhà văn Mai Thảo:
“  Thế gian có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời”

Tôi tự nhủ “Nhà văn mà lại làm thơ, hèn chi ‘không hiểu’ một cách cương quyết.”

Thế rồi trong một chuyến đi chơi châu Âu, tôi phải đương đầu với một “điều không hiểu”. 

Lần đó tôi đi chơi với một nhóm trẻ, bạn của đứa em út. Một ngày nọ, chúng tôi đi từ Scotland đến Belfast, thủ phủ của Bắc Ireland bằng xe hơi. Trời hè hôm ấy ngày dài lê thê. Xe chạy băng băng đến 10:00 đêm trời mới chạng vạng tối. Trời sáng lâu khiến lòng người hớn hở bao nhiêu thì khi màn đêm ập xuống sự hụt hẫng càng rõ rệt. Trong màn đêm, đoàn người du lịch trở nên im lặng. Anh lái chăm chú lái, chị “phụ xế” chăm chú đọc GPS, “đồng bọn” còn lại theo dõi cả hai. Tất cả đều căng thẳng vì chung quanh tối quá mà đường đi ngoằn ngoèo, không biết ở khúc quanh sắp tới sẽ có gì bất thường xảy ra chăng?

Cuối cùng rồi chúng tôi cũng đi hết được con đường hoang vắng, đến khu thị trấn nơi một ngưởi trong nhóm đã thuê sẵn ba phòng. Nhìn đồng hồ, tôi thấy đã gần nửa đêm, nhưng khách sạn vẫn sáng đèn. Anh lái xe nói: “Mình đã đặt chỗ, lại dặn sẽ đến giấc khuya thì họ sẽ phải chờ.”

Tuy nhiên, chúng tôi đậu xe xong, vẫn phải nhấn chuông, đợi một chốc thì có người ra mở cổng, mặt ngái ngủ. Thủ tục nhận phòng diễn ra lặng lẽ và nhanh chóng. Không có những câu chào hỏi xã giao nhưng nhân viên khách sạn vẫn hỏi “Quý vị còn cần gì khác không?” Lẽ ra chúng tôi cần một đứa một chén súp nóng, nhưng trong hoàn cảnh này, bất cứ lời đề nghị tương tự nào cũng đều trở nên khiếm nhã. Một đứa thầm thì với đồng bọn “Tụi mình còn mì ly.” Thế là mì được chia ra, ai nấy đem về phòng mình, tự nấu nước sôi, tự thưởng thức. Hai chị em tôi cười khúc khích, bảo nhau: “Mình du lịch hạng còn xoàng hơn Tây ba lô ở Việt Nam.” Nhưng đói quá thì mì ly cũng được bao tử tiếp đón niềm nở. Sau đó, hai chị em tôi nhanh chóng đánh răng, rửa  mặt, thay được bộ đồ bụi bậm trong ngày, rồi phân chia nhau, chị ngủ gần cửa sổ, em gần cửa ra vào. Phen này ắt phải ngủ như chết! Dè đâu!

Dè đâu một tiếng rầm làm cả hai chị em thức giấc. Chị hỏi “Chuyện gì vậy?”, em nhổm dậy nói “Để em ra xem!”  Nó chạy ra, rồi chạy vào ngay, thông báo: “Nhỏ Khanh xớn xác! Đi sao mà té cái rầm. U một cục ở trán nhưng chắc không nặng. Khanh về phòng rồi, mình ngủ tiếp thôi.”

Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy thì thấy trời đã sáng, nhưng khách sạn còn im lìm. Hai chị em ra hỏi thăm chỗ ăn sáng của khách sạn rồi lần đường ra khu vực tiếp tân đợi “đồng bọn”. Trong khi xuống cầu thang, tôi để ý từng bậc thang được lót bằng thảm màu cờ Scotland và nhiều hoa văn ngoằn ngoèo. Tôi nói:
- Thảm kiểu này, hèn chi nhỏ Khanh không nhìn ra các bậc thang!

Ra đến phòng tiếp tân, đợi một chút thì “đồng bọn” xuất hiện. Như thường lệ, chưa thấy người, tôi đã nghe loáng thoáng:
- Ai biểu mày khuya khoắt rồi còn léng phéng ra ngoài?
- Ai biểu con Linh đòi mã Wifi?
- Kệ nó!
- Kệ sao được với nó!
- Thì đi, sao không đi cẩn thận?
- Cẩn thận sao được. Hình như có ai đó đẩy tao đi. 
- Mày nói làm như có ma đẩy mày!
- Ma còn đỡ! Quỷ thì có! Mày có thấy ma nào đẩy được người không?

Quả vậy! Tôi nhớ trong phim “The Ghost” con ma muốn vận được sức thân người như người sống phải tập luyện rất lâu.

Cuối cùng, cả bọn cũng tụ được đầy đủ ở phòng tiếp tân, tính để hỏi thêm về các dịch vụ của khách sạn. Khanh lững thững theo sau, vừa đi vừa check tin nhắn trong I-phone.  Chúng tôi chứng kiến Khanh càng đọc mặt càng tái xanh.  Cô nàng đưa I-phone cho bạn Quân (người lái xe) coi. Quân đưa cho Linh. Linh chuyền tiếp. Cuối cùng tin nhắn đến tay chị em chúng tôi.  Có tổng cộng ba lời nhắn.

 Tôi lẩm bẩm đọc:

“I will arrive at Giant’s Causeway at 18:03. I’ll let you know if I’m running late." (Tôi sẽ đến Giant’s Causeway vào khoảng 18:03. Nếu trễ hơn, sẽ cho bạn biết.”)
[Giant’s Causeway là khu du lịch nổi tiếng trong vùng.]

“My updated arrival time to Giant’s Causeway is now around 18:09.” (Giờ đến của tôi bây giờ đổi thành 18:09.)

“I’m arriving at Giant’s Causeway soon.” (Tôi sẽ có mặt liền ở Giant’s Causeway.)

Khanh lắp bắp với đồng bọn:
“Làm sao tao có thể gửi message cho cô bạn bán áo dài mà không biết!”

Khanh lắp bắp tiếp:
“Mắc gì tao phải viết cho cô đó bằng tiếng Anh! Mà giọng văn này cũng không phải của tao! Nói thiệt với tụi bay, từ tối qua đến giờ, tao không ngừng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát mới sống sót đến bây giờ!”

Tôi nhìn kỹ thì thấy vết bầm gần mắt của Khanh đã tan dần. 

Lúc đó Quân mới định thần tiết lộ thêm chi tiết phần mình:

“Cái tật mê chụp hình! Tối qua lúc mấy bà đã về phòng ngủ, tui xách máy đi chụp hình khuya. Khi về lại khách sạn, tui đã cẩn thận load hình từ thẻ nhớ vào laptop. Sẵn tay tui load luôn hình từ mấy cái thẻ nhớ tui dùng hôm qua và hôm kia. Load xong rồi, tui cất các thẻ nhớ đó vào bịch nylon. Trong đó có hơn mười cái thẻ nhớ khác. Vậy mà sáng này tìm hoài không thấy túi đựng thẻ nhớ đâu hết. Rõ ràng tối hôm qua tui cẩn thận cất cái bịch thẻ vào trong ba lô trước đi ngủ.” 

Cả bọn chết lặng người, không đứa nào nói thêm được tiếng nào, chỉ còn biết vào phòng ăn sáng rồi sau đó tiếp tục đi chơi theo chương trình đã định. Trên đường từ khách sạn ra xe (mà Quân thuê từ đầu chuyến đi) thằng con trai của Quân đưa cho tôi tờ báo địa phương khách sạn để sẵn cho khách. Nó nói: “Nè, bác Khánh thích coi tin tức thì có đây.” Tôi hoan hỉ cầm nhưng còn xao lãng vì một chuyện dở dang. Linh tiện tay lấy tờ báo từ tay tôi, và thấy ngay hàng tít quảng cáo “ghost tour” ở một ngôi làng tên Carrickfergus thuộc Dublin, tại một khách sạn tên Dobbins Inn. Linh ngơ ngác một chút rồi hỏi mọi người:

“Đây có phải là làng Carrickfergus không?”
“Phải!” 
“Khách sạn này có phải tên Dobbin Inn không?
“Phải!”

Linh bần thần nói tiếp:
“Tao nhớ ra rồi. Khi đặt phòng online, tao có thấy một comment nói là khách sạn này có ma."

Cả bọn lao nhao hỏi Linh:
“Tại sao mày biết khách sạn có ma mà vẫn đặt phòng?”

Linh trả lời:
“Nó có ma nhưng nó được chấm tới 8 điểm trên 10!”

Khanh, nạn nhân chính của con ma, thì lại có cách nhìn vấn đề mới mẻ:
“Người ta phải tốn bao nhiêu tiền mới mua được cái ghost tour này. Mình đi tour hoàn toàn miễn phí, còn muốn gì nữa!”

Quả thật! Đám người trẻ đã vui vẻ với tầm nhìn kinh doanh này. Riêng tôi còn băn khoăn chuyện con ma. Rõ ràng là phải có một cõi âm. Những người trong cõi âm này nếu chưa được đi đầu thai (theo thuyết Phật giáo) thì sẽ quanh quẩn hoài ở cõi dương. Thỉnh thoảng họ phải nhắc nhở cho những người cõi dương nhớ sự hiện diện của họ. 

Giải thích như vậy không biết có được chấp nhận không. Riêng tôi thì đành công nhận đây là một trong những “triệu điều không hiểu của thế gian.”

Đã lỡ đọc hai câu đầu của bài thơ:
“Thế gian có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời”

Tôi xin đọc tiếp hai câu sau:
“Chẳng sao, khi đã nằm trong đất
Nhìn ở sao trời sẽ hiểu thôi.”

Bây giờ bốn câu thơ này được khắc trên mộ của nhà văn Mai Thảo tại nghĩa trang Peek Family. Thỉnh thoảng chúng tôi đưa Bố già đến thăm mộ bạn văn ngày xưa, Bố đọc lại 4 câu thơ rồi cười hỉ hả:
“Bây giờ ông ấy đã nhìn ở sao trời và đã hiểu!”

Chúng ta, những hậu duệ, cũng cần kiên nhẫn đợi đến ngày “đọc ở sao trời”.

Aug 4, 2024
Doãn Khánh




Jul 21, 2024

ÂM NHẠC VÀ GIÁO DỤC - Doãn Hưng

Khi nói đến âm nhạc, người ta thường liên tưởng đến khái niệm về “tâm hồn” hay “cảm xúc”. Khi nói đến giáo dục lại thường liên kết với “trí tuệ”. Một bên là nghệ thuật, một bên là tri thức. Một bên là những chàng nghệ sĩ, một bên là những nhà mô phạm.

Thực ra hai lĩnh vực này có nhiều khi đan lẫn, kết hợp với nhau. Âm nhạc là một ngành học với học vị lên tới tiến sĩ, không thua kém gì học bác sĩ, kỹ sư. Và khoa học đã chứng minh từ lâu rằng học âm nhạc góp phần phát triển khả năng trí tuệ toàn diện cho trẻ em.

Một thí dụ dễ hình dung cho giáo dục âm nhạc chính là giáo viên dạy nhạc trong các trường học. Tôi nhớ hồi xưa học lớp 6 ở trường trung học Petrus Ký Sài Gòn, ông thầy dạy nhạc là nhạc sĩ PMC khá nổi tiếng trong giới nhạc sĩ đương thời. Là người mê nhạc từ nhỏ, được học với nhạc sĩ PMC từng làm tôi rất hào hứng. Ấy thế mà trong suốt một năm học, đây lại là môn học chán nhất. Giờ học nhạc giống như giờ toán với kiến thức nốt tròn bằng hai nốt trắng, nốt trắng bằng hai nốt đen… Bài thi âm nhạc học kỳ hai là thi vẽ “cây thông âm nhạc”, với nốt tròn trên đỉnh và 64 nốt móc bốn ở dưới đáy. Điểm thi môn âm nhạc của tôi không cao, vì tôi vẽ khá tồi, kéo theo xếp hạng môn nhạc trong lớp chỉ ở mức trung bình! Những năm sau đó ở trung học, khi biết đàn guitar, tôi có dịp đàn cho các bạn nghe trong những đêm ngủ trong trường để trực đêm. Có thằng bạn còn hỏi: “Không ngờ mày dở môn âm nhạc, mà sao đàn nghe cũng được quá?!”

May sao cũng có được hình ảnh một ông thầy dạy nhạc dễ thương hơn nhiều qua phim ảnh. Sau 1975, cuốn phim trắng đen về cuộc đời của nhạc sĩ cổ điển Franz Schubert được chiếu ngoài rạp. Trong phim, ông thầy giáo tiểu học Schubert đang dạy học trò môn toán. Khi ông đang viết trên bảng phép tính chia 2/4, thì ông dừng lại suy nghĩ điều gì đó trong đầu khá lâu. Rồi bỗng dưng ông viết bảng tiếp, nhưng lần này thì 2/4 không phải là phép chia mà là nhịp 2/4 của một bài nhạc. Ông kẻ khuôn nhạc và viết nốt của một ca khúc lên bảng, rồi dạy cho học trò hát. Giờ học toán trở thành giờ dạy nhạc, cả thầy trò cùng hát say sưa. Khi ban giám hiệu biết được chuyện này, ông thầy giáo Schubert đương nhiên là mất việc. Chỉ có đám học trò là vui sướng, vì đã có được những giờ phút âm nhạc tuyệt vời và đầy ngẫu hứng.

Kể như vậy để thấy người truyền cảm hứng âm nhạc cho trẻ con chưa chắc đã là những ông thầy dạy âm nhạc. Trong trường hợp gia đình tôi, bố là người truyền tình yêu âm nhạc cho mọi thành viên trong gia đình của cả hai thế hệ. Ông là một nhà văn nhưng rất mê nhạc, đặc biệt là nhạc cổ điển. Là anh cả trong gia đình, một hôm bố tôi nói với bà nội rằng nên cho các em học nhạc, vì nhạc làm đẹp tâm hồn. Thế là bà nội, một phụ nữ làng quê ngoại thành Hà Nội, đã mua một chiếc đàn piano về để các con học. Hình ảnh cây đàn piano được kéo trên con đường làng, đặt vào trong căn nhà của ông bà nội gần cuối thôn thời bấy giờ là một hiện tượng!

Cũng tương tự như vậy, vài tháng sau ngày mất nước 1975, một số nhà giàu ở Sài Gòn muốn bán đàn piano vì sợ bị đánh tư sản. Bố tôi bàn với cô em ruột rằng đây là cơ hội hiếm có để mua một cây piano cho đám con cháu học. Thế là cô tôi đã quyết định lấy số tiền của hồi môn từ gia đình chồng để mua một cây piano, đặt nó ở nhà tôi, một căn nhà ở cuối hẻm lao động. Em gái tôi, con gái của cô nhờ vậy mà được cho đi học đàn; cả nhà từ đó được học nhạc “ké”. Bản thân tôi bắt đầu biết chơi nhạc từ đó, nhờ vào niềm tin “âm nhạc làm đẹp tâm hồn” của bố.

Ý tưởng “mua đàn piano” của bố tôi làm ảnh hưởng rất nhiều đến những người khác trong đại gia đình qua nhiều thế hệ. Ông chú tôi là một nhạc sĩ quân đội của chế độ cộng sản miền Bắc, học đến tiến sĩ về nhạc giao hưởng. Hiện nay ông được xem là một cây đại thụ của nền âm nhạc cách mạng, có thể so sánh với Phạm Duy trong nền âm nhạc Miền Nam. Nhiều người em họ của tôi ngoài Bắc đi học nhạc chuyên nghiệp, sống bằng những nghề có liên quan đến âm nhạc. Riêng gia đình bố tôi và bà cô cùng di cư vào Nam không có ai sống bằng nghề âm nhạc cả. Tất cả chỉ dừng lại ở mức “âm nhạc làm đẹp tâm hồn”. Con cháu thuộc thế hệ thứ ba của đại gia đình hầu hết đều được cho đi học thêm nhạc để giải trí, để làm phong phú thêm cuộc sống.

Trở lại với câu chuyện về “âm nhạc” và “giáo dục”, câu hỏi đặt ra là việc học nhạc không nhằm mục đích kiếm sống có lợi ích ra sao đối với một cá nhân? Trong thời buổi hiện nay việc nuôi dạy con cái khá đắt đỏ và bận rộn, liệu có cần thiết phải cho con cái học thêm nhạc sau những giờ bận bịu ở trường? Câu trả lời chắc chắn sẽ rất khác nhau tùy theo hoàn cảnh của từng gia đình. Dưới đây là những chia sẻ cá nhân của một người kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau, nhưng cả đời xem âm nhạc là món ăn tinh thần không thể thiếu.

Đầu tiên, việc có kiến thức về âm nhạc sẽ làm tăng khả năng cảm thụ âm nhạc. Một người dù không biết về nhạc lý, nhưng nghe một bản nhạc vẫn có cảm nhận riêng là “hay” hoặc “dở”, “thích” hoặc “không thích”.  Nhưng hỏi tại sao “hay” hoặc “dở” thì sẽ không biết tại sao. Thêm nữa, nếu không có kiến thức thì chỉ có thể nghe được một số loại nhạc nhất định. Thí dụ, có rất nhiều người yêu thích nhạc pop, nhưng tự nhận rằng mình “không đủ trình độ để thưởng thức nhạc cổ điển”. 

Khác với ca khúc, nhạc cổ điển không có lời. Những gì tác giả muốn diễn đạt chỉ thông qua thứ ngôn ngữ âm thanh thuần túy. Vì vậy nó đòi hỏi phải có một chút kiến thức, một ít trí tưởng tượng để thưởng thức. Khi biết rằng cấu tạo của một bản nhạc bao gồm giai điệu, hòa âm, tiết tấu, người nghe có thể bắt đầu đi vào thế giới âm nhạc cổ điển, khám phá những vẻ đẹp không cần ngôn ngữ để diễn tả. Lấy ví dụ như tấu khúc Sonate Ánh Trăng của Beethoven. Nhắm mắt lại, người nghe có thể tưởng tượng ra ánh trăng đang lung linh trên mặt hồ. Khi mặt hồ phẳng lặng, ánh trăng phản chiếu cũng trầm mặc. Khi mặt hồ gợn sóng, ánh trăng cũng chao đảo cùng những cơn sóng chập chùng. Người nghe cũng có thể cảm nhận được những cảm xúc lúc lắng đọng, lúc tuôn trào của tác giả theo những giai điệu tuyệt đẹp. Không phải tự nhiên mà tấu khúc này trở thành bất tử. Và nếu không có kiến thức về âm nhạc, người nghe sẽ khó có thể đón nhận được hết món quà tuyệt vời mà người nghệ sĩ đã dâng tặng cho đời. Nhiều người phải trả rất nhiều tiền để mua được cảm giác hạnh phúc, thỏa mãn. Trong khi cảm nhận vẻ đẹp âm nhạc là niềm hạnh phúc dễ dàng có được mà không mất tiền mua.

Âm nhạc không chỉ mang lại cho con người cảm xúc, mà còn có khả năng ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ nhỏ, đem lại nhiều tác động tích cực cho tâm lý con người ở mọi lứa tuổi. Không phải tự nhiên mà âm nhạc có trong chương trình giáo dục tiểu học, trung học của nhiều quốc gia trên thế giới. Trên mạng internet có rất nhiều bài viết, nhiều nghiên cứu cho thấy âm nhạc như một công cụ để kết nối người với người, để cá nhân thể hiện chính mình, giúp giảm nhẹ những căng thẳng tâm lý… Âm nhạc làm tăng cảm nhận hạnh phúc, tạo sự tin tưởng giữa con người, giúp người ta dễ thương yêu nhau hơn. Hãy tưởng tượng một người đang yêu không có khả năng diễn tả cảm xúc của mình, bỗng dưng nghe một câu hát trong một tình khúc nói lên đúng tâm trạng của mình. Nghe sướng làm sao! Người đó sẽ muốn cảm ơn người nhạc sĩ không quen biết, và hiểu được sự đồng cảm giữa người với người qua âm nhạc.

Âm nhạc làm cho một người trở nên phong phú hơn, tốt đẹp hơn; có khả năng đưa con người đến gần nhau hơn. Như vậy khả năng âm nhạc làm cho xã hội thăng hoa là một điều hoàn toàn khả thi. Một xã hội có nhiều cá nhân có khả năng thưởng ngoạn âm nhạc cao ắt hẳn sẽ là một xã hội nhân văn hơn, với tinh thần hòa ái cao hơn. Trong bối cảnh Việt Nam trong nửa thế kỷ qua loay hoay chuyển từ “đấu tranh giai cấp” sang “làm giàu trên hết”, một xã hội nhân văn hơn là niềm mơ ước của nhiều người Việt.

Rồi cũng với âm nhạc, nhân loại mơ về một thế giới đại đồng với hoan khúc bất tử Hymne Ode A La Joie (Symphony No.9 – Beethoven). Âm nhạc là ngôn ngữ chung của mọi dân tộc. Nói chi đến thế giới cho to lớn, chỉ ở trong nước Mỹ thôi ngày nay người ta đang thù ghét, chia rẽ vì chính trị. Trong tình hình như vậy, bàn chuyện giáo dục âm nhạc để làm cho con người biết thương yêu nhau là một đề tài không bao giờ cũ.

Doãn Hưng

Jul 16, 2024

ĐÀN PIANO CỦA EM - Maya và Zayn

 Maya mô tả "đàn piano của em" bằng một bài văn ... không chữ nhưng với tiếng đàn 😌


https://youtu.be/RnDljsArxKQ


https://youtu.be/MKLbC42FgMc




https://youtu.be/-PLx4M-QWWs


https://youtu.be/Rha5FygtAsc


PS:

Maya đàn được ... so does Zayn 


https://youtube.com/shorts/yHTm78lg7uI


https://youtube.com/shorts/HP7aFeHrAoI


https://youtube.com/shorts/PKYiY-P-SBI


Jul 15, 2024

ĐÀN PIANO CỦA EM - Vũ Minh Chi tự Cỏ


Trong số những món quà em được tặng, em đặc biệt yêu thích cây đàn piano. Em được bà ngoại gử tẳng vào năm em 4 tuổi. Cây đàn có vỏ ngoài làm bằng gỗ màu nâu bóng. Các phím đàn đều tăm tắp, khi đánh âm thanh từ phím đàn vang lên du dương. Em được cô giáo dạy đánh những bài nhạc đầu tiên. Em mong rằng một ngày nào đó em có thể đánh những bản nhạc hay để gửi tặng bà.

Vũ Minh Chi - tự Cỏ"





Bà ra đề bài “chiếc đàn piano của em” cho Cỏ từ lâu rồi. Em trả lời bà rằng em chỉ thích học bơi và đánh cầu thôi. Nên bà chẳng hy vọng gì! Vậy mà hôm nay Cỏ làm bất ngờ…

Bà ngoại nghe xong lẽ dĩ là khen Cỏ quá chừng. Nhưng đến khi hỏi chừng nào mình học đàn thì em làm lơ. Hỏi gặn thì em vẫn chỉ thích học bơi và đánh cầu mà thôi. 

Mẹ của Cỏ: Vậy là bài viết của mình không trung thực rồi!

Cỏ đổi đề tài liền một khi: Con nói là ma có thật mà…

Nhận thấy rằng “gợi ý mà không bắt đúng tần số của cháu thì nên dừng” kẻo mà… nó không thèm nói chuyện với bà nữa là hỏng chuyện hết!

Hết chuyện!

- bà ngoại Doãn Cẩm Liên


Jul 14, 2024

XEM PHIM FACE OFF 7: ONE WISH - MỘT ĐIỀU ƯỚC- NGHĨ VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM - Doãn Quốc Hưng


Chưa đầy ba tháng sau khi giới thiệu bộ phim Mai tại thị trường Âu, Mỹ, công ty phát hành phim 3388 lại tổ chức buổi ra mắt giới thiệu một bộ phim Việt Nam mới với tựa đề Face Off 7: One Wish (Lật Mặt 7: Một Điều Ước). Đây là tập mới nhất của loạt phim dài nhất và thành công nhất mọi thời đại tại Việt Nam. Phim được khởi chiếu quốc tế vào ngày 14/06/2024 tại hơn 12 quốc gia trên khắp 3 lục địa Bắc Mỹ, Châu Âu và Úc, trở thành bộ phim có suất chiếu quốc tế rộng nhất từ ​​trước đến nay. Phim được viết kịch bản bởi Lý Hải, cũng chính là đạo diễn; nhà sản xuất là Minh Hà- Lý Hải Production; nhà phát hành độc quyền ở quốc tế là 3388 Films. Cả Lý Hải và Minh Hà đều có mặt trong buổi ra mắt tại Regal Irvine Spectrum Quận Cam vào tối 11 tháng 6.

Một số khán giả khi đọc tựa phim là Face Off nghĩ rằng sẽ xem một bộ phim hành động. Lâu nay, phim Việt Nam chủ yếu là phim võ thuật, hình sự, phiêu lưu, phim hài. Nhưng họ đã lầm, vì nội dung chính của Face Off 7 có liên quan đến văn hóa gia đình Việt Nam, một nội dung ít được khai thác trước đây. Nhưng với một nội dung không được trông đợi, phim lại cho khán giả nhiều điều bất ngờ, và là những bất ngờ thú vị.

Nhân vật chính là Bà Hai, một người mẹ góa chồng từ sớm, một mình tảo tần nuôi dạy năm đứa con từ thơ dại cho đến khôn lớn. Diễn viên Thanh Hiền có gương mặt gầy gò nhưng phúc hậu, với những nếp da nhăn, mái đầu bạc, là hình ảnh điển hình của Mẹ Việt Nam từ nhiều thập kỷ trong lĩnh vực điện ảnh, nhiếp ảnh. Cũng nhờ vậy mà nhiều khán giả thấy hình ảnh của mẹ mình, bà mình qua nhân vật Bà Hai, cảm thấy bị cuốn hút theo những vui buồn của bà trong suốt bộ phim.

Bà Hai không chỉ có ngoại hình đặc trưng của một bà mẹ quê Việt Nam, mà còn cả về tính cách. Bà là một người khiêm tốn, lúc nào cũng cảm ơn người khác, và luôn nhận phần lỗi về mình. Nước mắt chảy xuôi, bà lo cho con cháu cả gần lẫn xa, nhưng không bao giờ đòi hỏi ở các con điều gì. Bà là một người nhân ái, thường giúp đỡ người khác cho dù mình nghèo khó. Cũng chính vì sự rộng lượng ngay cả với một cô du khách trẻ nhà giàu từ Sài Gòn đến du lịch ở con suối trước nhà bà ở Huyện Lạc Dương, bà bất ngờ có được sự giúp đỡ của cô gái này nhân dịp xuống Sài Gòn, từ đó giúp người con út làm thợ xây dựng thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ, phá sản do vi phạm luật xây dựng. Một triết lý “ở hiền gặp lành” rất đặc trưng trong văn hóa Việt.

Khán giả xem phim không chỉ thấy hình ảnh người Mẹ Việt Nam quen thuộc qua Bà Hai, mà còn thấy những bi kịch của gia đình bà ở nhiều gia đình Việt Nam khác. Một điểm thành công của bộ phim là đặt ra những vấn đề rất chung của nhiều gia đình Việt ngày hôm nay, không chỉ ở trong nước mà cả ở hải ngoại. Bà sống với người con gái thứ nhì, Ba Lành, ở ngoại ô Đà Lạt, trong khi bốn người con khác phải đi lập nghiệp ở các tỉnh thành khắp ba miền. Ai cũng bận bịu sinh nhai, chăm sóc gia đình, chẳng mấy khi về thăm mẹ, ngay cả khi mẹ bị té gãy chân. Rồi gia cảnh còn thêm khó khăn khi con gái của Ba Lành bị bệnh phải nằm nhà thương trên tỉnh, cô không thể vừa chăm mẹ, vừa lo cho con, nên đành phải dùng video call họp gia đình, kêu gọi anh chị em tìm giải pháp phụ giúp chăm mẹ. Ban đầu ai cũng đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Nhưng rồi một giải pháp buộc mọi người phải chấp nhận, đó là phải luân phiên chăm sóc mẹ tại nhà của mình. Hình như đó cũng là tình trạng chung của nhiều gia đình Việt ở Mỹ trong cuộc sống sấp ngửa, bon chen, đầy áp lực…

Bà Hai đầu tiên được đón ra sống với người con trai lớn, Hai Khôn, ở Hà Nội. Ở đó, bà lại chứng kiến bi kịch của gia đình con trai, bố mẹ chịu nhiều áp lực khi phải lo kiếm tiền chi trả cho các tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thì giờ cho con cái đang ở tuổi thành niên. Bố mẹ luôn kỳ vọng các con phải học thật giỏi, nhưng không quan tâm đến việc con mới lớn có mơ ước gì. Đến lúc con cái làm điều sai trái, cha mẹ chỉ biết trách mắng. Không có kết nối truyền thông giữa cha mẹ và con cái, không có tình thương, căn nhà không phải là một mái ấm gia đình. Trong những năm qua ở Quận Cam, đã có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức về những vấn đề tương tự dành cho gia đình gốc Việt. Một vài học sinh trung học gốc Việt đã phải tìm đến cái chết vì không có được sự cảm thông của cha mẹ thể vượt qua những áp lực ngoài xã hội.

Vào cuối phim, khi nhận ra hoàn cảnh khó khăn của từng gia đình 5 người con, Bà Hai tự tìm đến một viện dưỡng lão để không trở thành gánh nặng cho con cái. Đó có phải là hoàn cảnh chung của nhiều gia đình gốc Việt ở Mỹ? Và có bao nhiêu cha mẹ Việt Nam cảm thấy hài lòng với việc sống ở viện dưỡng lão vào giai đoạn cuối đời như Bà Hai?

Bộ phim rồi cũng kết thúc có hậu, khá logic, không quá phi thực tế. Ban đầu Bà Hai được các con miễn cưỡng đưa về chăm sóc. Nhưng đến với gia đình nào, bà dần trở thành niềm hạnh phúc của gia đình đó. Bà bắt nhịp cầu thương yêu trở lại giữa các thế hệ. Bà giải quyết những mâu thuẫn, khó khăn của từng gia đình. Sau khi đã sống một vòng với tất cả các con, bà trở về nhà, nhưng cả năm người con đều sẵn sàng đón mẹ về sống với gia đình mình trở lại. Khi bà quyết định vào sống tại một viện dưỡng lão, dấu tông tích để cho các con không thể tìm ra, cả bốn người con đều trở về căn nhà thơ ấu để cùng tìm kiếm mẹ. Căn nhà trở thành nơi đoàn tụ của đại gia đình trong dịp Giáng Sinh, Tết Nguyên Đán, đúng như niềm mơ ước từ lâu của bà.

Thêm một điểm đáng khen nữa của Face Off 7:  ngoài việc phác họa thành công về văn hóa gia đình Việt, phim còn giới thiệu một số thành phố ở ba miền một cách khá sống động, chân thực, gần gũi. Khán giả theo Bà Hai ra bắc viếng Hà Nội, về miền Trung hưởng gió biển Ninh Thuận, lên cao nguyên thăm rẫy cà phê Bảo Lộc, về Sài Gòn nghe phố xá ồn ào. Có một số phim Việt Nam khi quay cảnh tại các địa phương lại cố tình làm cho chúng đẹp hơn thực tế. Thí dụ như dựng những cảnh về vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng lại quá màu sắc, tươm tất, hoàn toàn không đúng với cái đẹp mộc mạc, giản dị của sông nước Miền Nam. Ngoài ra, phim còn cho khán giả có một khái niệm tổng quát nhưng khá thực tế về sinh hoạt của người Việt trong một số ngành nghề tiêu biểu trong xã hội. Hai Khôn là một lãnh đạo trong doanh nghiệp, Tư Hậu là một ngư dân, vợ chồng Năm Thảo đi làm công trên nương rẫy, Sáu Tâm làm công nhân xây dựng. Quả là một bộ phim có nhiều điều để những khán giả hải ngoại cần chú ý nếu muốn tìm hiểu về đời sống ở Việt Nam hôm nay.

Về mặt kỹ thuật, cũng giống như nhiều phim Việt Nam hiện nay, Face Off 7: One Wish rất đáng khen trong kỹ thuật quay, góc quay, ánh sáng… Những ngôn ngữ điện ảnh này được sử dụng ít mang tính khoa trương, mà giúp tăng hiệu ứng của những thông điệp phim gởi đến khán giả. Kịch bản mạch lạc, hợp lý, không cần quá cường điệu hóa nhưng vẫn thu hút được khán giả đến phần kết.

Nếu cần nêu lên “những điều có thể làm tốt hơn” trong dàn dựng, Face Off 7 vẫn hơi bị “tham lam”, cố nhét nhiều thứ không cần thiết vào phim. Thí dụ như phần cuối có thể kết thúc ngắn gọn hơn, ngay ở đoạn các con tìm được Bà Hai ở viện dưỡng lão, kết thúc ngay cảnh đó là đủ và đẹp, không cần đoạn kế tiếp đưa bà về nhà mới. Và phim cũng nên để cho khán giả không gian để tưởng tượng, suy nghĩ thêm về những điều không được diễn trên màn ảnh. Dẫn dắt trong mọi chi tiết có thể làm khán giả mất đi cảm xúc của riêng mình đối với bộ phim.

Nhưng đó chỉ là những khuyết điểm nhỏ. Một số khán giả sau khi xem Face Off 7: One Wish phát biểu rằng phim đã làm cho họ thực sự rơi nước mắt, đem lại nhiều cảm xúc đặc biệt. Đã lâu rồi mới được xem một bộ phim Việt Nam chủ đề tâm lý xã hội mang lại nhiều điều để suy gẫm sau khi ra về như vậy. Một khán giả khác cho rằng nếu chọn một bộ phim Việt gần đây để giới thiệu ra nước ngoài, phim Lật Mặt 7: Một Điều Ước xứng đáng được chọn, vì phim phần nào mang tính chất, con người và văn hóa Việt.

Phim kết thúc với tình tiết đứa cháu nội tìm ra viện dưỡng lão nơi Bà Hai sinh sống nhờ hình ảnh vườn hoa bất tử tại nơi này trên mạng xã hội. Bà Hai cả đời yêu hoa bất tử, một loài hoa đặc trưng của Đà Lạt ngày xưa, nhưng nay ít có người ưa chuộng. Phải chăng loài hoa bất tử của Bà Hai chính là tình mẫu tử, tình thương yêu gia đình, vốn là những nét đẹp đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam? Bộ phim Face Off 7: One Wish như đem lại một tín hiệu tốt lành rằng trong một xã hội Việt Nam ngày nay đang có quá nhiều điều nhiễu nhương,  những nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam vẫn còn có chỗ để tồn tại…

Doãn Hưng

PHỞ ĐỨC TỤNG - ông ngoại Tú Mỡ

 Cô Doãn Thị Mỹ chép nhặt.

Thơ của Cụ Tú Mỡ

Năm 1947, nhà thơ Tú Mỡ đi công tác. Ông cùng người dẫn đường đến Bắc Giang, bụng đói mà trong túi không còn một cắc. Nhà thơ bước vào quán và nói muốn tặng một bài thơ về phở, nếu chủ quán thấy được thì chì xin 2 bát phở, nếu chê dở thì thôi! Chủ quán bất ngờ trước đề nghị của khách, lại thấy cũng là nên gật đầu. Tú Mỡ lấy bút ra chép, chữ hiện loang loáng trên giấy và chưa đầy 10 phút, bài thơ đã xong, nhà thơ hắng giọng đọc cho chủ quán và khách nghe. Nghe xong, chủ quán phục tài vái Tú Mỡ mấy vái rồi sai gia nhân dọn phở mời hai người và cũng không quên xin bài thơ để dán lên cửa. Thực ra đó là bài “Phở đức tụng” ông sáng tác từ năm 1933.

Trong các món ăn quân tử vị
Phở là quà đáng quý nhất trên đời
Một vài xu đâu đắt đỏ mấy mươi
Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ
Này bánh cuốn, này thịt bò, này nước sao nhánh mỡ
Ngọn rau thơm, hành củ thái trên
Nước mắm hồ tiêu cùng dấm ớt điểm
Khói nghi ngút đưa lên điếc mũi
Như xúc động tới ruột gan, bàn phổi
Như dục khơi cái đói của gan tì
Dẫu sơn hào hải vị không bì
Xơi một bát thường chưa thích miệng
Kẻ phú quý cho tới người bần tiện
Hỏi ai đã nếm chẳng ưa
Thầy thông thầy phán đi sớm về trưa
Điểm tâm phở ngon ơ và chắc dạ
Cánh thợ thuyền làm ăn vất vả
Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn
Khách làng thơ đêm thức viết văn
Được bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí
Bọn đào kép con nhà ca kĩ
Lấy phở làm đầu vị giải lao
Chúng chị em tối mận sớm đào
Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc
Phở là đại bổ, tất bằng mười thuốc bắc
Quế phụ sâm nhung chưa chắc đã hơn
Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì
Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch…
Anh em lao động, đồng tiền không rúc ríc
Coi phở là môn thuốc ích vô song
Các bậc vương tôn thưởng chả phượng nem
Chưa chén phở, vẫn còn không đủ món
Chớ khinh phở là đồ ăn hèn mọn
Đấu xảo thành Ba Lê còn phải đón phở sang
Cùng các cao lương vạn quốc phô trương
Ngon lại rẻ, thường tranh quán giải
Sống trên đời phở không ăn cũng dại
Lúc buông tay ắt phải cũng kèm
Ai ơi! Nếm thử kẻo thèm…

Ngọc Tiến sưu tầm, in trong khảo cứu “Đi ngang Hà Nội – Đi dọc Hà Nội