Tiếng Đàn Tôi- Một Con
Người
Tôi xin tự giới thiệu,
tôi là một tiếng đàn guitar.
Có nhiều người sẽ hỏi
rằng: “tiếng đàn guitar thì phải là của một ai đó. Không thể có tiếng đàn nếu
không có người chơi đàn. Vậy thì phải giới thiệu người chơi đàn mới đúng!”.
Ý kiến này không sai.
Tôi là “tiếng đàn của anh H.”, bởi vì anh H. là người đã cho tôi sự hiện hữu.
Hay tôi là “Tiếng Đàn
Tôi”, cụm từ mà anh H. dùng để nói về tôi.
Nhưng mà, sau gần 40
năm tôi hiện hữu trên cõi đời như là “tiếng đàn của anh H.”, chính anh H. cũng
đã khám phá ra một điều lý thú: giữa tôi và anh, tuy hai mà một. Đã có những
lúc, tôi chỉ là một âm thanh được tạo ra bởi anh H. và cây đàn guitar của anh.
Nhưng có đôi khi, tôi lại hiện hữu như một thực thể bên ngoài. Chúng tôi giống
như hai con người, có thể chia sẻ, cảm nhận lẫn nhau.
Nghĩ cũng lạ, khi tôi-
một tiếng đàn- lại tự sự như một con người…
--0--
Tôi ra đời vào khoảng năm 1977. Anh H. lúc đó là một học
sinh trung học ở Sài Gòn. Những năm đầu tiên “bị giải phóng”, cả Miền Nam không
còn lo gì khác hơn chuyện cơm áo, gạo tiền, chuyện làm sao để tồn tại. Nhưng đó
cũng là lúc mọi người có thì giờ rảnh rỗi thật nhiều, vì hầu như những thứ giải
trí, tiêu khiển theo kiểu “văn hóa Sài Gòn” đều bị cấm. Một số người đã quyết định
dành thời giờ này để bù đắp cho những khoảng trống về nhu cầu tinh thần, bất chấp
vật chất bị thiếu thốn triền miên trong xã hội. Anh H. là một trong số người
đó. Ở nhà còn một cây guitar cũ kiểu “modern”, dây sắt. Anh H. đã loay hoay tự
học guitar classic, theo sự chỉ dẫn của một người bạn học guitar trước. Thời đó
làm gì có tiền để đi học nhạc. Phải tự học lấy thôi! Và như thế, tôi bắt đầu cất
tiếng, với những bài học guitar classic đầu tiên của anh H.
Phải nói là trong giai đoạn này, tôi hoàn toàn là “tiếng đàn
của anh H.”. Tôi lớn lên như một đứa bé bắt đầu biết bò, rồi chập chững bước
đi. “tiếng đàn của anh H.” loạng choạng lúc đầu, cố đánh đúng từng nốt Do, Re,
Mi… trên phím đàn. Rồi bắt đầu tiếng đàn biết giữ theo nhịp điệu, giai điệu. Khi
anh H. đánh thành thạo Bài Tập Số 1, cung Đô Trưởng, tiết điệu Valse trên cuốn
sách Carulli Guitar Method, có thể xem như lúc đó tôi bắt đầu “hát được một bản
nhạc”, chứ không còn là “phát ra âm thanh” nữa.
Tôi trưởng thành mau chóng, khi anh H. bắt đầu chăm chút đến
tiếng đàn của mình hơn. Anh đã có tiền để mua được cây đàn classic dây nylon đầu
tiên của mình. Tôi lúc đó là những nhạc khúc cổ điển tây ban cầm, ngày một khó
hơn về kỹ thuật. Do kỹ thuật chơi guitar của anh H. có tiến bộ, cho nên tôi-
“tiếng đàn của anh H.”- đã êm tai, thu hút được người nghe hơn trước. Vào khoảng
cuối thập niên 70 ở Sài Gòn, phong trào chơi và nghe guitar cổ điển khá thịnh
hành. Tôi còn nhớ những đêm anh H. và bạn học cùng lớp đi canh gác trường ban
đêm, anh luôn đem theo cây guitar. Anh chơi nhạc classic cho bạn nghe cả đêm,
có khi đến hai, ba giờ sáng. Cả hai mươi năm sau, một số bạn bè cũ gặp lại anh
H. vẫn còn nhắc: “… Hồi đó đi trực đêm, nghe H. đánh đàn classic đã lắm…”.
Có một sự kiện khác, cũng có liên quan đến tiếng đàn classic
của anh H.. Anh có một ông bố là một nhà văn chống cộng nổi tiếng trước 1975. Một
đêm nọ, hàng chục công an kéo đến nhà anh H. vào nửa đêm, lục soát nhà để tìm
“tài liệu phản động” cho đến rạng sáng, rồi mới bắt ông bố của anh đi. Trong suốt
đêm đó, cả nhà anh H. bị giam lỏng ở phòng khách. Một người bạn học đi vượt
biên từ năm 1980, ở Mỹ về Việt Nam chơi
vào khoảng đầu thập niên 1990s, đã kể cho anh H. nghe: “Hồi đó ở Mỹ, mọi người
lo lắng theo dõi dụ bắt bồ của mày. Tao nghe một nguồn tin, kể lại từ một trong
những tay công an có mặt trong đêm đó kể lại. Tay công an này nói rằng, ở nhà
ông nhà văn cũng lạ. Trong cả đêm nhà bị lục soát rối tung, có một thằng con
trai của ổng lại chơi đàn guitar suốt đêm, giống như không có chuyện gì! Tao
nghe biết ngay đó là sự thực, và thằng đó chính là mày. Giống như hồi đó mày
đàn suốt đêm cho tụi tao nghe lúc trực đêm trong trường vậy!...”.
Cũng chính vì thói quen “đánh đàn ban đêm” này, đã có lúc,
cái cảm giác tôi và anh H. không còn là một bắt đầu xuất hiện. Những khi thất tình,
anh H. ngồi đàn một mình vào ban đêm. Lúc đó, tôi thấy hình như tôi là một người
bạn đồng cảm, vỗ về anh H.. Hình như khi trút được tâm sự qua tôi, nỗi buồn của
anh được nguôi ngoai phần nào. Và cũng qua những nỗi buồn đó, hình như tôi- một
tiếng đàn- đã bắt đầu dần dần hình thành một chút tình cảm, một chút “cá tính”.
Nhưng mà, tôi sẽ vẫn cứ là “tiếng đàn của anh H.”, nếu anh
H. chỉ chơi nhạc độc tấu cổ điển như vậy.
Mọi chuyện bắt đầu thay đổi, khi anh H. đệm đàn cho người
khác hát.
Một trong những người đầu tiên anh H. đệm đàn cho hát là người
bạn gái đầu đời của anh. Anh đã dành tiếng đàn cho tiếng hát của người tình với
cả niềm đam mê trong tâm hồn. Và anh mong muốn tiếng hát của nàng phải đáp lại
tương xứng. Ở tuổi mới lớn, tiếng đàn là một thứ tạo nên bản ngã. Anh đặt kỳ vọng
thật nhiều vào sự “tri âm- tri kỷ” giữa tiếng đàn của mình và tiếng hát của người
tình. Tiếng đàn và tiếng hát phải đại điện
cho hai tâm hồn hòa hợp lẫn nhau. Một thứ tình yêu được thi vị hóa, thần thánh
hóa, thường thấy ở những mối tình đầu.
Mối tình đầu không thành. Anh H. vẫn tiếp tục đi tìm mối
tình mới, mong tìm được người “tri âm-tri kỉ”. Anh H. bắt đầu ít chơi nhạc cổ
điển, mà say mê đệm đàn cho người hát hơn.
Hình như là thế giới của ca khúc hợp với tâm hồn của anh hơn.
Kho tàng ca khúc của Việt Nam từ thời tiến chiến, tiếp nối đến nền văn nghệ của
Miền Nam trước 1975, sao mà phong phú quá! Anh H. tìm thấy những nét đẹp tuyệt
vời trong tâm hồn những nhạc sĩ Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Văn Cao, Đoàn Chuẩn
Từ Linh, Lê Uyên Phương, Trịnh Công Sơn… ghi dấu lại trong ca khúc của họ. Anh
cũng cảm nhận được sự đam mê của những ca sĩ Thái Thanh, Khánh Ly, Duy Trác,
Thái Hiền, Tuấn Ngọc… khi thả hồn theo những ca khúc này. Trong thế giới của ca
khúc, vai trò của cây đàn guitar có khác so với khi chơi nhạc guitar cổ điển.
Người đệm đàn không còn độc tấu, trình diễn tiếng đàn. Người đệm đàn phải dùng
tiếng đàn của mình làm cầu nối giữa người hát và người nhạc sĩ sáng tác ca
khúc. Quan hệ này hình thành một “mối tình” tay ba người sáng tác-người đàn-
người hát thật đặc biệt. Nó phức tạp, trừu tượng, tinh tế. Nhưng cũng vì vậy,
khi đã tìm được sự đồng cảm, thì những cảm xúc mà nó đem lại kỳ diệu thật khó tả.
Những người yêu thích đệm đàn cho người khác hát sẽ cảm nhận được sự kỳ diệu
này.
Hãy tưởng tượng, một buổi trưa hè, đi ngang qua những cánh đồng
lúa cằn cỗi của miền quê Quảng Trị. Nhìn sự khô héo của thiên nhiên, nhìn những
nếp nhăn khắc khổ trên nét mặt của người nông dân Miền Trung, tự nhiên tiếng
hát Thái Thanh réo rắt ca khúc Quê Nghèo của Phạm Duy bật lên trong đầu:
Làng tôi không xa kinh
kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy
Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy…
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy
Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy…
Lúc đó, người nghe mới cảm nhận hết được cái hay của nhạc Phạm
Duy. Đã có biết bao người đã đi qua những vùng đất quê hương như vậy. Nhưng có
mấy ai để lại một tác phẩm để đời như Phạm Duy?
Hay là một chàng trai mới lớn, biết yêu lần đầu, không biết
làm sao để ngỏ lời cùng người yêu. Chợt nghe qua chiếc máy hát cũ, giọng Sĩ Phú
trầm trầm, chầm chậm như tâm tình qua ca khúc Nỗi Lòng, thấy như nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh đã giải bày
tâm sự thay cho mình:
Yêu ai, yêu cả một đời
Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta
Đau tủi cả lòng vì yêu ai mà lòng hằng nhớ
Năm tháng trôi lạnh lùng hoài
Tình đó nhắc nhở luôn đến ta tình ai
Nhớ cả một trời
Tình yêu kia mà lòng nào quên…
Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta
Đau tủi cả lòng vì yêu ai mà lòng hằng nhớ
Năm tháng trôi lạnh lùng hoài
Tình đó nhắc nhở luôn đến ta tình ai
Nhớ cả một trời
Tình yêu kia mà lòng nào quên…
Hay là một thanh niên yêu nước, đang trằn trọc với nỗi đau của
dân tộc. Còn gì hơn khi cùng những bạn bè cùng tâm huyết hát vang giai điệu hào
hùng Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của
Nguyễn Đức Quang:
Ta như nước dâng dâng
tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian…
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian…
Những đồng cảm giữa người nghe và nhạc sĩ như vậy thật là
bay bổng. Nó có phần đặc biệt hơn đối với những người chơi đàn. Khi đàn cho người
khác hát lại những ca khúc này, sự đồng cảm này sẽ giúp họ truyền được cảm hứng
vào tiếng đàn, và từ đó làm cho người hát có hiểu được ca khúc giống như mình.
Người đàn, người hát mà cùng rung động với người nhạc sĩ sáng tác, thì nghệ thuật
chắc hẳn sẽ được thăng hoa.
Anh H. là một trong những người đàn tìm được sự đồng cảm
này. Và đó có lẽ chính là yếu tố quan trọng nhất, để tách tôi ra thành một “con
người” riêng.
Nói tôi là một “con người”, bởi vì tôi có “cá tính” hẳn hòi.
Khi người đàn ít để ý chăm chút tiếng đàn của mình, mà để ý đến ca khúc và người
hát, chính là lúc tiếng đàn tách ra khỏi “cái tôi” của người đàn. Hiện tượng
tách rời này cũng có thể thấy tương tự ở nhạc sĩ và ca khúc do họ sáng tác, hay
giữa ca sĩ và tiếng hát của họ. Đã có không ít trường hợp khán giả nhận xét: “Tại
sao nhạc sĩ A. tính tình keo kiệt, mà lại sáng tác được những bài hát nhân bản
đến thế?”. Hay là: “Cái cô ca sĩ B. rất khó chịu, nhưng không hiểu tại sao tiếng
hát đẹp như vậy?...”. Có thể lúc sáng tác, lúc hát, thì người nghệ sĩ, ca sĩ
không còn là con người trong cuộc sống thường nhật. Có thể lúc đó, người nghệ
sĩ sống trong thế giới nghệ thuật của riêng họ. Người đàn và tiếng đàn cũng thế.
Người đàn tạo ra âm thanh. Nhưng “cá tính” của tiếng đàn và của người chơi đàn
không phải lúc nào cũng là một. Khi người đàn bớt yêu cái bản ngã, tiếng đàn sẽ
có cơ hội hòa mình vào bản nhạc, vào người
hát.
Khi tôi bắt đầu là một thực thể riêng biệt, tôi cũng có cảm
nhận riêng đối với những người hát. Tôi cũng say mê những “tiếng hát tri kỷ”,
không kém gì những chàng trai yêu các cô gái. Những “tiếng hát tri kỷ” đó không
nhất thiết phải là những ca sĩ chuyên nghiệp, những giọng hát điêu luyện. Tiếng
đàn đi tìm những giọng hát có cùng rung động trong ca khúc. Sự hòa điệu này
không đến từ kỹ thuật hát, mà xuất phát từ bên trong tâm hồn.
Tôi nhớ có lần đã được cùng hòa điệu theo tiếng hát của ca
sĩ nổi tiếng D.T. trong ca khúc Tiếng Chuông Chiều Thu. Ai đã từng nghe D.T.
hát ca khúc bất hủ của Tô Vũ này với dàn nhạc thính phòng, thì sẽ nhận ra ông
ta có giọng hát nhạc tiền chiến hay tuyệt diệu! Quí phái, lãng mạn, sang trọng.
Vậy mà hôm đó, ca sĩ D.T. hát chỉ với một “Tiếng Đàn Tôi”, ông ta cũng rung cảm,
diễn tả đầy cảm xúc, như giọng ngân nga của tiếng chuông chiều trong bài hát.
Hay là nữ ca sĩ Q.G., một người yêu mến và am hiểu nhạc Phạm
Duy. Có một lần ở nhà chị, trước khi hát Chiều Về Trên Sông, chị kể lại Phạm
Duy sáng tác ca khúc này lúc nào, và chỉ ra “câu vọng cổ” mà Phạm Duy đưa vào
ca khúc. Lần đó, chị Q.G. hát Chiều Về Trên Sông với “Tiếng Đàn Tôi”. Cả tôi và
chị đều thú vị, khi diễn tả được nỗi buồn man mác của buổi hoàng hôn trên giòng
sông Cửu Long. Cũng từ đó, đôi khi chị yêu cầu được hát chỉ với “Tiếng Đàn
Tôi”, trong những ca khúc thường đệm bằng cả dàn nhạc. “Tri âm tri kỉ” là vậy…
Tôi đã say mê với những giọng hát của những người dù còn trẻ,
nhưng cảm nhận sâu sắc được vui buồn của một kiếp người. Cho nên tiếng hát của
họ có chiều sâu thẳm, đầy cảm xúc, mà không phải ca sĩ chuyên nghiệp nào cũng
có được. Tôi nhớ chị T.M., dù không phải là một ca sĩ chuyên nghiệp, nhưng đã từng
đi hát ở phòng trà, có một giọng hát khá điêu luyện. Nhưng chị chỉ thực sự hát
“xuất thần” sau khi chị mắc phải căn bệnh ung thư, được điều trị trong nhiều
năm, nên trải qua được cảm xúc của những người sống trọn vẹn hôm nay như là
ngày mai sẽ chết. Có một lần, chị bỏ hết công việc ở Mỹ, về Việt Nam, để ngồi
hát với một vài người bạn thân trong một căn nhà bếp ở Sài Gòn. Chị hát Tạ Ơn Đời,
Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài, Dạ Lai Hương… với “Tiếng Đàn Tôi”. Những bài hát chị
hát đã nhiều lần trước đó với ban nhạc chuyên nghiệp. Bạn bè cũng đã từng nghe,
nhưng nhận xét rằng đó là lần mà chị T.M. hát hay nhất, giàu cảm xúc nhất từ trước
đến giờ!
Hay là giọng hát của những người yêu nhạc thực sự, nhưng ít
có dịp hát, vì thường bận chuyện công việc, gia đình. A. là một nữ nhân viên Sở
An Sinh Xã Hội ở Mỹ. Có một lần, trong một kỳ trại hướng đạo trên núi, A. có dịp
bỏ hết nỗi lo thường nhật, để hát trong đêm lửa trại. Lần đó, tôi dìu giọng hát
của A. trong những bài Không Tên của Vũ Thành An mà cô rất thích, nhưng trước
giờ chỉ hát cùng dàn Karaoke. Bạn bè thú vị khi nhận ra giọng hát rất “có tình
cảm” của A., một người mà trước đây tưởng rằng chỉ biết lo chuyện chồng con, bếp
núc, chứ không hề có “máu văn nghệ”...
Khi tôi không còn là “cái tôi” của anh H., tôi có thể hòa điệu
cùng đủ thứ âm nhạc, của nhiều loại người hát khác nhau. Tôi thấy mình lớn lên
cùng sự sâu sắc, từng trải của nhạc Phạm Duy. Tôi thấy mình thăng hoa cùng sự
quí phái của nhạc Cung Tiến. Tôi thấy mình chân tình cùng dòng nhạc Bolero ủy mị.
Tôi thấy mình đầy hào khí cùng dòng nhạc Du Ca, dòng nhạc tranh đấu cho quê
hương Việt Nam. Tôi thấy mình thánh thiện cùng dòng nhạc thiền ca, thánh ca. Rồi
cứ thế, tôi trở thành bạn bè, và được tán thưởng bởi đủ loại những người hát, bắt
đầu từ lúc nào mà chính tôi cũng không nhớ. Sau hơn 40 năm, anh H. và tôi mới
chợt nhận ra rằng, người ta nhắc đến “Tiếng Đàn Tôi” còn nhiều hơn cả bản thân
anh H. nữa! Thật là kỳ lạ và thú vị! Những lời tán thưởng mà chính tôi ít khi
nghĩ tới, hoặc mong đợi có được.
Đ.K là một người bạn thân của anh H. trong nhóm bạn văn nghệ
ở Sài Gòn. Chúng tôi vẫn ngồi đàn hát chung trong những buổi “văn nghệ bỏ túi”,
nơi họp mặt của những người xem đàn hát là một nhu cầu không thua kém nhu cầu sinh
kế. Đ.K. là một trong những người tạo cho tôi nguồn cảm hứng rất nhiều trong âm
nhạc. Đ.K. hát không điêu luyện. Nhưng độ say mê thì khó có ai sánh kịp. Đ.K.
hiểu nhạc sĩ, tìm hiểu hoàn cảnh mà nhạc sĩ sáng tác từng ca khúc mà mình hát,
để được sống lại hoàn cảnh, tâm trạng đó qua bản nhạc. Khi Đ.K. hát Quê Nghèo,
nghe như anh đang nức nở trước cái cảnh nghèo của dân Miền Trung hiện ra trước
mắt. Đ.K. gọi thần tượng Thái Thanh là “Cô Thái”, và anh hát cũng bằng cả trái
tim, bằng từng hơi thở như giọng hát khóc cười cùng nhân thế này. Khi tôi cùng
anh H. đi sang Mỹ được vài năm, Đ.K. có viết một lá thư tâm sự rằng: “… thật là
kỳ lạ. Từ hồi H. đi tới giờ, những buổi văn nghệ bỏ túi của tụi tui ở Việt Nam
bỗng nhiên mất đi sinh khí…”.
Hoặc là những người bạn trong nhóm hướng đạo. Thỉnh thoảng
có dịp, tôi lại cùng họ đàn hát trong những
đêm lửa trại. Trong ánh lửa bập bùng, giữa rừng núi vang lên giọng hát, tiếng
đàn, cùng những câu chuyện kỷ niệm vui buồn gắn liền với những ca khúc. Sau
này, khi anh H. bận công việc phải ngừng tham dự những kỳ trại như vậy trong một
vài năm, những người bạn đó đã nói rằng: thiếu “Tiếng Đàn Tôi”, những tiếng hát
trong đêm lửa trại hình như cũng bớt đi nguồn cảm hứng…
Hay là chị K.L., người ca sĩ nổi tiếng với những ca khúc Trịnh
Công Sơn. Sau một lần hát cùng “Tiếng Đàn Tôi”, chị đã nói rằng chị thích hát với
một tiếng đàn giống như thế, cho dù chỉ là một tiếng đàn nghiệp dư. “Hát và đàn
như vậy mới sướng!...”, chị đã nói như vậy…
Hay là một nhóm Phật Tử trẻ, chỉ gồm những giọng hát bình
thường, muốn đem âm nhạc để truyền tải Phật Pháp đến với mọi người. Các bạn và
“Tiếng Đàn Tôi” cùng tập hát cho đại chúng trong các khóa tu, biến các bản thiền
ca thành một hình thức nhạc cộng đồng. Lúc chúng tôi đàn hát cùng đại chúng,
không ai để ý đến tiếng hát, tiếng đàn của mình. Chúng tôi chỉ mong nghe được
tiếng hát đầy hào hứng của mọi người. Món quà dành cho chúng tôi là những gương
mặt rạng rỡ vì hiểu được chân lý hơn, qua những bài hát chung dễ hát, dễ thuộc,
dễ hiểu. Các bạn Phật Tử trẻ này đã nói rằng, nếu không có “Tiếng Đàn Tôi”, các
em đã không thực được việc làm rất có ý nghĩa này…
Còn nhiều lời bình luận chân tình như vậy lắm. Và tôi cũng
không thể quên sự tán tưởng của những người nghe nữa. Từ đầu, tôi đã nhắc đến mối
tình tay ba giữa người sáng tác- người đàn- người hát. Mối tình văn nghệ này có
thể trở thành “mối tình tay tư”, nếu thêm sự đồng cảm của những người khán giả.
Khi khán giả nghe một ca khúc qua tiếng đàn, tiếng hát cũng với một tâm hồn tri
âm tri kỷ, thì tình yêu âm nhạc hình như không có biên giới giữa những cá nhân…
--0--
Thật là kỳ diệu! Từ một
con người chơi đàn có “cái tôi”, đã có thêm một “Tiếng Đàn Tôi” với một “cá
tính” tách biệt. Và rồi, bản ngã của cả người đàn và tiếng đàn lại như mất đi,
để tìm được sự cộng hưởng tâm hồn chung với những người nhạc sĩ, những người
hát, và những người nghe hát…
Đến đây, tôi chợt liên
tưởng “Tiếng Đàn Tôi” với một công án thiền thời hiện đại. Ai đàn? Ai là tiếng
đàn? Ai hát? Ai nghe ai đàn, ai nghe ai hát?...
Khi một cá nhân thấy được
“cái tôi” trong “cái chung” với những người xung quanh, sự đồng cảm sẽ phát
sinh và nhân rộng. Và hạnh phúc đến từ sự đồng cảm trong một “tình thương nhân
thế bao la” (Xuân Thì- Phạm Duy) như vậy, quả là một niềm hạnh phúc không bến bờ...
Tôi bắt đầu bằng lời tự
giới thiệu là “Tiếng Đàn Tôi”. Tôi kết thúc câu chuyện bằng cách bỏ chữ “Tôi”
trong cụm từ ấy…
Tôi… Một Tiếng Đàn…
Tiếng Đàn Tôi
https://www.facebook.com/gTmT2012/videos/pcb.377492875951031/377492329284419/?type=3&theater
5 comments:
Hưng ơi
Đọc bài viết của Hưng tui quá vui:
-Cách chọn "nhân vật" thú vị!
-Cả một đoạn "lịch sử" dài nhưng hết sức mạch lạc và gợi cảm.
-Có tui trong đó (mà còn vinh dự đứng chugn với toàn người nổi tiếng như Duy Trác, Quỳnh Giao, Tuyết Minh...)
...
Cho dù "quen" và được "Tiếng Đàn H." chấp nhận "hòa điệu" trong một thời gian dài nhưng với tui vẫn "không bao giờ đủ!"
Trong thời gian đó, "tụi mình" đã "thẩm thấu" chất Việt trong từng lời ca & nốt nhạc của Phạm Duy, Văn Cao, Cung Tiến, Vũ Thành An, Từ Công Phụng... (nhờ đó mà tui từ 1 kẻ hát "phô" trở thành "nghe được"!). Tuy nhiên (vì không bao giờ đủ) nên giá như bây giờ "tui" & "Tiếng Đàn H." còn cơ hội gặp nhau, ta sẽ trao đổi nhiều thứ thú vị hơn.
Có những "trường phái" khác (tạm gọi như vậy), thí dụ như:
"Ngày nao giã từ đất mẹ mà đi
Vì nghe lời dân lời nước vỗ về.
Nước chia hai đường, nước chưa về
Xót thương cho người lỡ câu thề..."
Hay
"Giòng máu thấm đổ ruộng cày
Giòng máu vẫn chảy miệt mài, trên đồng sâu hay trên nương lúa..."
Tuyệt vời như:
"Lời ru giữ quê hương mình"...
Tuy đơn giản, quê và "sến" hơn nhưng cũng làm trái tim ta thắt lại!
...
"Tiếng Đàn" / "Người hát":
"A ha ta tuy hai mà một / A ha ta tuy một hai"
ĐÀN / HÁT làm người ta mạnh lên... mà đã MẠNH HƠN thì người ta không còn SỢ HÃI nữa!
(đó là ý nghĩa "tuyệt vời" của HCC và của "H.&Tiếng Đàn H.")
K
Hello Khoa,
Đối với “Tiếng Đàn Tôi”, thì “Tiếng Hát Khoa” là một tri kỷ!
Tui nghĩ mình sẽ có dịp hát hò lại với nhau nữa ở VN. Nhưng giá mà Khoa chịu khó sang Mỹ chơi. Tui sẽ ráng sắp xếp để Khoa có dịp hát trong ánh lửa giữa núi rừng ban đêm, thú vị lắm. Một thứ mà ở VN rất khó thực hiện, dù Khoa có nhiều tiền
C U soon
Cheers,
Hung Doan
Cách đặt vấn đề của chú Hưng rất mới, thích mối "quan hệ tay ba" này lắm!
Má Thuỳ
Má Thùi,
Chú Hưng dạo này chỉ làm tin tức, cho nên thỉnh thoảng cũng phải viết như thế này để… giải trí.
Má Thùi cũng nên viết lại đi nghe. Tụi mình bắt đầu già rồi. Cái gì thích làm thì nên làm liền…
Cheers,
Chú Hưng
Chào mọi người,
Bình luận hôm nay khiến bác K nghĩ ngày xưa bố Sỹ đã có nhận xét sau đây về các nhân vật trong tiểu thuyết: Thoạt tiên tác giả là Thượng Đế đầy quyền uy, tạo ra các nhân vật, thổi vào họ sự sống cho họ sống, đặt vào não của họ một số suy nghĩ, đặt vào miệng họ một số lời nói, rồi kể cho độc giả rằng "Chàng nghĩ ....", Chàng nói:" ...." Nàng trả lời v.v...
Nhưng đến một lúc nào đó các nhân vật sẽtự tạo ra quyền lực của chính mình, sẽ quay lại điều khiển tác giả để người này viết xuống đúng những tư tưởng và lời nói của họ (chứ không phải của tác giả!.
Có thể coi đây là một cuộc đảo chánh.
Tác giả nào bị "đảo chánh" sẽ có một tác phẩm hay.
Theo như lời kể của "tiếng đàn tôi" thì chú Hưng gàn đã bị "đảo chánh", để tiếng đàn đứng ra kể chuyện, xưng "tôi". Rồi đến khi mất luôn chữ tôi để chỉ là "tiếng đàn" thì không biết nó co ý định nhập Niết Bàn không hay ở lại trần thế để giúp vui cho người?
Bác K
Post a Comment