TOÁT YẾU
Magandiya Sutta - To Magandiya
The Buddha meets the hedonist philosopher Magandiya and points out
to him the dangers in sensual pleasures, the benefits of renunciation,
and the meaning of Nibbàna.
Giảng cho Magandiya.Phật gặp người theo thuyết hưởng lạc tên Magandiya và chỉ cho ông
ta thấy những nguy hiểm trong năm dục, lợi
ích của xuất ly và ý nghĩa của Niết Bàn.
TÓM TẮT
Phật
đến nghỉ trong nhà lửa của
một Bà la môn, và buổi sáng
đắp y cầm bát
đi khất thực. Du sĩ Magandiya đến nhà Bà la môn trông thấy thảm
cỏ dành cho Phật, bảo Bà la môn rằng thật là môt sự bất hạnh khi ông
thấy thảm cỏ của Gotama một vị phá hoại sự sống (1). Bà la môn bảo du sĩ
hãy thận trọng trong lời nói, vì tôn giả Gotama
được nhiều trí tôn trọng, là người
đã tu theo thánh
đạo. Magandiya bảo dù có mặt tôn giả
Gotama bây giờ, ông cũng sẽ nói vậy, vì thánh
điển của ông đã truyền lại như thế.
Phật
đang ngồi trong rừng, với thiên
nhĩ thanh tịnh, nghe
được câu chuyện ấy bèn
trở về nhà lửa của Bà la môn, Ngài hỏi có phải du sĩ Magandiya
đã nói về thảm cỏ này không. Bà la
môn hoảng kinh bạch Phật
đó là
điều ông sắp nói, không ngờ Phật đã
biết. Khi ấy Magandiya xuất hiện.
Phật hỏi Magandiya có phải vì Ngài chủ trương hộ trì n
ăm
giác quan nên ông cho là Ngài phá hoại sự sống. Du sĩ xác nhận,
và
đưa thánh điển của mình ra làm
chứng.
Phật hỏi ông, nếu một người sau khi thụ hưởng chán chê n
ăm
dục lạc, thấy rỏ sự nguy hiểm trong đó, và xuất ly các sắc,
thanh, hương, vị, xúc, sống với nội tâm an tịnh, với khát ái
được đoạn trừ. Về một người như vậy ông có
ý kiến gì không? Du sĩ nói không. Phật dạy khi còn tại gia Ngài
hưởng thụ
đầy đủ năm dục (2), nhưng
sau một thời gian thấy rõ vị ngọt, sự nguy hiểm của chúng, Ngài
đã
đoạn
tận dục ái, trừ diệt sự nóng bức của dục, an trú với khát ái được đoạn
trừ, với nội tâm an tịnh. Khi thấy các chúng sanh khác chưa xả ly n
ăm
dục, đang bị dục thiêu
đốt, Ngài
không ao ước
được như họ. Vì Ngài
đã nếm
được hỉ lạc của thiền định ly dục, ly bất thiện pháp, siêu quá hỉ
lạc cỏi trời (3) nên Ngài không còn ao ước cái gì thấp kém.
Phật
đưa ra hai ví dụ về dục lạc so với
thiền lạc.
Ví dụ 1: Một người sinh lên cỏi trời 33,
được chúng thiên nữ hầu hạ, thọ hưởng các thiên dục một cách sung
mãn. Khi trông thấy người
đời thọ hưởng năm
dục, vị trời kia có khao khát trở lui về các dục của loài người
không? Du sĩ nói không, vì dục cỏi trời vô cùng vi diệu hơn cỏi người.
Phật dạy cũng vậy khi còn tại gia Ngài
đã
hưởng thụ n
ăm dục một cách sung mãn;
nhưng về sau khi
đã chứng trú hỉ lạc
thiền
định, Ngài không còn ham thích
dục lạc thấp kém.
Ví dụ 2: Người bệnh cùi với thân thể lở lói dùng ngón tay cào rách
miệng các vết thương cho chảy máu và
đốt mình
trên hố than hừng; trong lúc ấy người cùi cảm thấy khoái trá (4) vì dịu
cơn ngứa. Nhưng một người lành mạnh hay một người cùi
đã hết bệnh, khi nhìn thấy cảnh
tượng máu me và lửa nóng ấy, có ao ước
được
như người cùi kia không? Du sĩ
đáp
không, người khỏi bệnh hay người không bệnh sẽ xem cảnh ấy là
đáng sợ. Phật dạy người đã ly dục,
ly bất thiện pháp, trú trong hỉ lạc thiền
định nhìn n
ăm dục cũng vậy, xem nó là
khổ não nóng bức. Chỉ vì chúng sanh chưa
đoạn trừ tham ái, bị ái dục thiêu
đốt, nên có ảo tưởng lạc thọ trong n
ăm
dục.
Một người còn hưởng thụ
đầy đủ năm dục,
chưa trừ diệt sự nóng bức của dục vọng thì không thể an trú với
khác ái
đã
được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Khi ấy
Phật thốt lên bài kệ
đã phổ
biến trong quần chúng (5):
Không bệnh, lợi tối thắng
Niết bàn, lạc tối thắng
Bát chánh là độc đạo
An ổn là bất tử
Du sĩ xác nhận ông cũng
đã
được nghe các tôn sư của ông truyền lại bài
kệ ấy. Phật hỏi ông thế nào là không bệnh, thế nào là Niết bàn. Du sĩ
trả lời rằng tôi nay không có bệnh tật gì,
được an lạc (6). Phật dạy ví như người mù bị gạt về màu sắc, du
sĩ cũng bị gạt về vô bệnh và Niết bàn. Vì thân này chính là bệnh, là cục
bướu, là mũi tên, là
điều bất hạnh. Khi đã
biết gì là không bệnh, ông có thể thấy Niết bàn. Khi pháp nhãn khởi lên,
lòng tham
đối với năm thủ uẩn được đoạn
trừ, ông có thể thấy trong một thời gian dài
đã bị tâm này lừa gạt, khiến ông
chấp thủ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức (7). Do chấp thủ nên có hữu, do
có hữu sinh, do sinh có già chết.
Đó là
tập khởi của toàn bộ khổ uẩn.
Khi ấy du sĩ xin Phật thuyết pháp cho ông
để hết mù. Phật dạy ông hãy thân cận
các vị chân nhân
để được nghe diệu pháp.
Nhờ nghe pháp ông sẽ sống đúng với chánh pháp. Nhờ sống đúng chánh pháp
ông sẽ tự chứng biết thân này là bệnh, cục bướu, mũi tên, sẽ biết
những pháp này (8)
được trừ diệt không có
dư tàn. Do chấp thủ
được trừ diệt nên
già chết diệt. Như vậy là
đoạn diệt toàn
bộ khổ uẩn.
Du sĩ Magandiya tán thán Phật, xin quy y và xuất gia thọ
đại giới. Phật dạy ai trước kia là
ngoại
đạo muốn xuất gia phải qua bốn
tháng biệt trú. Du sĩ tình nguyện biệt trú bốn n
ăm.
Sau khi thọ đại giới không bao lâu, ông chứng được mục đích tối cao mà
con cháu các lương gia khi từ bỏ gia
đình
sống không gia
đình hướng
đến: Sinh đã tận, phạm hạnh
đã thành, những gì nên làm
đã làm, sau
đời này không còn
đời nào khác.
CHÚ GIẢI
(1)
Bhùnahuno, kẻ phá hoại sự sống. Luận giải thích du sĩ có
quan
điểm rằng sự "trưởng thành" cần
phải
được thực hiện qua 6 giác quan, bằng
cách kinh nghiệm bất cứ cảnh vật nào ta chưa từng kinh nghiệm
trước kia, không bám vào các
đối tượng đã
quen thuộc. Quan
điểm này có vẻ gần
với thái
độ người ta hiện nay, cho rằng
hạnh phúc tối thượng chính là nồng
độ và sự
đa dạng của kinh nghiệm,
bởi thế cần theo đuổi kinh nghiệm không hạn chế.
(2) Phụ thân của Ngài,
Đức Vua đã
cung cấp cho Ngài 3 cung
điện và
nhiều phụ nữ vây quanh với hy vọng giữ Ngài lại trong
đời sống thế tục, làm cho Ngài lãng
quên ý tưởng xuất gia.
(3) Theo Luận,
điều này
được nói để ám chỉ sự đắc quả A la hán căn
cứ trên tứ thiền.
(4) Từ ngữ này ám chỉ "
điên
đảo tưởng" thấy khổ cho là vui. Luận
nói dục lạc là
đau khổ vì chúng gợi
lên những ô nhiễm và vì chúng
đem lại quả
khổ trong tương lai.
(5) Toàn bài kệ
đã
được Chư Phật quá khứ tụng đọc giữa bốn hội
chúng. Quần chúng học thuộc xem như một bài kệ liên hệ
đến điềm lành. Sau khi
Đức Phật cuối cùng qua
đời, bài kệ này lan truyền trong các
du sĩ, nhưng họ chỉ có thể nhớ
được hai câu
đầu.
(6) Magandiya rõ ràng
đã hiểu câu
này phù hợp với tà kiến thứ 58 trong Kinh Phạm Võng: "Khi tự ngã này
được cung cấp 5 dục trưởng dưởng,
hoan lạc trong
đó, vào lúc ấy tự ngã
đạt đến Niết bàn tối thượng trong
hiện tại, ngay ở
đây". (Trường Bộ
kinh I).
(7) Từ ngữ này ngụ ý vị ấy bám víu sắc, thọ, …
được lầm tưởng là tôi, của tôi và tự
ngã của tôi. Khi khởi lên tri kiến
đắc quả
Dự lưu thì kiến chấp về ngã
được
đoạn trừ, và vị ấy hiểu rằng 5 uẩn chỉ là những hiện tượng trống
rỗng vô ngã.
(8)
Những pháp này ám chỉ n
ăm
uẩn.
Trích Trung Bô Kinh Toát Yếu
Ni Sư Trí Hải biên soạn
http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung-ty-08.htm